Thứ Năm, 3 tháng 4, 2014

"Trả lời Người trông Đền Thôn Minh Triết"

Tượng thờ Ngô Thì Nhậm trong Điện thờ Tây Sơn Tam Kiệt (Bảo tàng Quang Trung, Bình Định)

Từng nghe, Đức Thượng Đế giáng cho lòng trung cái lương tri,lương năng ai cũng có sẵn: bậc thái thượng trọng về đức hạnh, việc nêu ra, đáp lại lễ vốn tự nhiên.

Cho nên tính từ trong lòng phát ra; mà lễ thì do nghĩa xuất hiện.

Lão phu tôi, giữ mình kém cỏi, gặp buổi khó khăn. Làm kẻ hạ lưu, trở về chịu tiếng xấu xa, hình tích giống như ông Di Ngô thoát vòng gông trói, làm bậc trung sĩ rõ thật hổ thẹn, sự tình khác chi người Vương Đán lấy ngọc minh châu.


May gặp thời bình trị, không bị bỏ rơi, thẹn đến lúc tuổi nhiều lại còn gặp gỡ.

Trong chốn nhà nho, dâng khúc hát, theo bước quan trường, trước thềm nhà Phật giảng câu kinh, gửi duyên tịnh độ.

Tự biết chưa đáng cho người chiêm ngưỡng, vậy nên phải nhờ tới lượng thần minh.

Nhân trích một khu sau ngự dài đương ở, xây dựng ngôi đền. Ở giữa thờ bài vị ngài Văn tự tổ sư, tả và hữu phối hưởng bài vị các bậc Nho học, Thư học tiên sư.

Thiêng liêng đầy rẫy như thường giáng lâm, kính cẩn giữ gìn không dám khinh hốt.

Tìm huyền bí như cát, hung, hối, lận, mọi lẽ, lòng để hỏi lòng bằng thi, bốc làm tin; song cơ quan nào kính đãi,nghĩa, dục mọi đường, sắc không phải sắc, lấy Trúc Lâm làm chủ.

Nhận thấy trong lòng không khuyết, dám đâu nắm mớ , bòn nhiều.

Nay, căn cứ thôn Minh triết bên chợ Quốc tử giám, thuộc huyện Thọ Xương, có đơn cùng suy tôn (ta) làm Long Biên đại ẩn sĩ.Sau khi trăm tuổi già, phối hưởng theo các vị Tổ sư, Tiên sư ở ngôi đền bản doanh này, ,bản thôn xin làm nghĩa tử của nhà đền. Nghĩ rằng, Hiển ở chổ ẩn, hợp dị làm đồng. Song cái nghĩa của chữ ẩn,không mong ở ngoài, chẳng cầu ở người.

Đời cùng ta quên hẳn, ẩn ở sơn lâm không phải dễ, ẩn ở thành thị lại càng khó.

Lão phu tôi, tơ trần vướng vít, cuộc thế nổi chìm.

Nghĩ tự mình ẩn dật phải đâu, mang tên ấy hão huyền sao được.

Song, thôn quê với mọi người,cũng như đảng phái với mọi người,người quân tử ở hòa, xử phải, nên suy cái nghĩa không cô lập mà có láng giềng; vả, thời kỳ của đại quá,nên có việc làm của đại quá, người quân tử ở ẩn trốn đời,thường ở trong lớp phồn hoa ba đãng.

Thât thế, không phải tàng với ẩn vì còn là mong triết với minh.

Nhân ban cho bản doanh ruộng hai mẫu hai sào,ao hai chiếc sáu sào tám thước.Ruộng và ao này là mua đất riêng của Viện quận công,là vị Quốc lão khi trước,có đủ tờ lệnh chỉ, phê phó và văn khế lưu lại làm dấu tích, hơn nữa có cả bản đồ ghi chép cả bồn bên lân cận.Ruộng này:

Dùng để cung phụng lửa hương muôn thủa, chỉnh đốn mua sắm xôi, lợn bốn mùa.

Ôi! Muôn việc ở đời, hết thảy là không,ruộng ao là vật có đâu ở trong không có? Nhưng toàn thể bốn mối của lẽ trời, quỷ thần ở nơi có thật, đâu phải là không?

Việc sử dụng,quan hệ ở đức thịnh hay suy; lễ phụng thờ, căn cứ ở tình phai hay thắm.

Cả Thôn các ông nương nhờ gần cõi thánh, thật có người, thì có đất, khoảng cao dày lâu vững khôn cùng, lão phu tôi đây xét kỹ lòng người, đã có gốc tức có đầu, chốn nhân nghĩa cấy cày không hết.

Sẽ cố, cùng theo đường thẳng, đều giữ thói thuần.

Kính kẻ tôn, yêu kẻ thân, người người sum họp buổi thái bình thịnh trị, làm ruộng ấy, yêu việc ấy, đời đời hưởng thụ phúc hòa hảo hoan ngu.

Nay đáp Thư.

(Chép lại từ Ngô Thì Nhậm Toàn Tập.TI NXB KHXH 2003 tr 844)