Trần Thị
Băng Thanh
Các triều đại xưa đều có cơ quan chép sử, gọi là Sử
quán, và cũng có những sử gia tự do, viết sử để bày tỏ quan điểm của mình, hy vọng
lưu lại cho hậu thế. Các quan trong Sử quán chép sử là làm công việc chính thức
được triều đình giao phó. Nói chung phải theo quan điểm chính thống của triều
đình, nhưng các nhà làm sử cũng có phần tự do nhất định, nghĩa là được phép
“phê phán” vua hoặc những chuyện xấu xa trong triều đình, được nêu ý kiến bình
luận riêng. Về nguyên tắc, vua đương triều không được phép đọc những điều quan
chép sử viết về mình và các quyền thần cũng không được quyền can thiệp. Những
người chép sử được giáo dục phải coi trọng nhân cách, có khí tiết, tôn trọng lẽ
phải mà không khuất phục quyển uy. Mặt khác, hai thể loại sử thường được dùng
nhiều trong việc làm sử là biên niên, ghi chép sự kiện theo năm tháng, và thực
lục, cũng có tính khách quan nhất định.
Triều đình có muốn giấu giếm một việc xấu xa hay bịa tạc một sự kiện nào đó, cũng khó thực hiện được, chỉ có cách giảm nhẹ hay tô đậm mức độ nghiêm trọng hay tích cực của sự việc mà thôi. Ngoài ra, những phần sử do triều đại sau chép về triều đại trước, có thể vừa khách quan hơn cũng vừa thiên lệch hơn, nhưng cũng không thể bỏ qua sự kiện ... Chính nhờ những điều kiện đó mà cổ sử về cơ bản rất đáng tin cậy, ngày nay chúng ta có thể căn cứ vào các sử liệu trong đó để suy xét, tìm kiếm bổ sung thêm và suy luận. Tuy nhiên, vì là sử của triều đình nên sự việc được quan tâm chép chủ yếu là những sự kiện liên quan đến triều đình và những sự kiện chính, lớn của quốc gia, không bao quát hết được mọi sự kiện cụ thể xảy ra trong dân trong nước. Thời đại càng xa, sử ghi chép càng vắn tắt sơ sài. Đặc biệt ở nước ta, sau chính sách cướp sạch, đốt sạch thư tịch ViệtNam
của nhà Minh đầu thế kỷ XV thì hầu như sử sách văn chương chẳng còn gì. Cho nên
sau khi giành lại chủ quyền, cố gắng lắm các sử gia hai triều đại Trần Lê mới
phục dựng được lịch sử mấy nghìn năm (từ thời lập quốc cho đến hết đời Hồ) của
dân tộc bằng 13 quyển, quá ít so với 11 quyển chép sử từ 1407 đến 1675 (chưa đầy
270 năm). Vì thực tế đó nên rất nhiều sử kiện không được đưa vào sử sách, nhiều
giai đoạn chỉ được chép rất sơ sài.
Triều đình có muốn giấu giếm một việc xấu xa hay bịa tạc một sự kiện nào đó, cũng khó thực hiện được, chỉ có cách giảm nhẹ hay tô đậm mức độ nghiêm trọng hay tích cực của sự việc mà thôi. Ngoài ra, những phần sử do triều đại sau chép về triều đại trước, có thể vừa khách quan hơn cũng vừa thiên lệch hơn, nhưng cũng không thể bỏ qua sự kiện ... Chính nhờ những điều kiện đó mà cổ sử về cơ bản rất đáng tin cậy, ngày nay chúng ta có thể căn cứ vào các sử liệu trong đó để suy xét, tìm kiếm bổ sung thêm và suy luận. Tuy nhiên, vì là sử của triều đình nên sự việc được quan tâm chép chủ yếu là những sự kiện liên quan đến triều đình và những sự kiện chính, lớn của quốc gia, không bao quát hết được mọi sự kiện cụ thể xảy ra trong dân trong nước. Thời đại càng xa, sử ghi chép càng vắn tắt sơ sài. Đặc biệt ở nước ta, sau chính sách cướp sạch, đốt sạch thư tịch Việt
Cuộc
khởi nghĩa chống xâm lăng và triều đại Bà Trưng là một ví dụ. Nước ta bị
nhà Tây Hán đô hộ từ năm 110 trước Tây lịch, đã 140 năm, không có một sự chống
đối nào. Đến năm 39 sau Tây lịch, Hai Bà Trưng mới nổi dậy khởi nghĩa, giành lại
chủ quyền cho dân tộc. Ngô Sĩ Liên trong Đại
Việt sử ký toàn thư chép về hai Bà như sau:
“Canh
Tý, năm thứ nhất (40) (Hán Kiến Vũ năm thứ 16). Mùa xuân, tháng 2, vua khổ vì
thái thú Tô Định dùng pháp luật trói buộc, lại thù Định giết chồng mình, mới
cùng em gái là Nhị nổi binh hãm trị sở ở châu. Định chạy về nước, các quận Nam
Hải, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều hưởng ứng, lấy được 65 thành ở Lĩnh Nam, tự
lập làm vua, mới xưng là họ Trưng”.
Về cuộc chiến với Mã Viện sử chỉ chép:
“Nhâm
Dần, năm thứ ba (42 dương lịch), (Hán Kiến Vũ Đế năm thứ 18). Mùa xuân Mã Viện
theo ven biển mà tiến, san núi làm đường hơn nghìn dặm, đến Lãng Bạc đánh nhau
với vua. Vua thấy thế giặc mạnh lắm, tự nghĩ quân mình ô hợp, sợ không chống nổi,
lui quân về giữ Cấm Khê. Quân chúng cũng cho vua là đàn bà, sợ không đánh nổi địch,
bèn tan chạy. Quốc thống lại mất”.
Lê Tung, trong Việt giám thông khảo tổng luận thì chép:
“Kịp
đến Trưng Vương là dòng dõi Hùng Vương, chị em đều có tiếng dũng lược, tụ họp
người các bộ, hăng hái dấy đội quân hùng mạnh, lững lẫy uy danh, quận huyện hưởng
ứng, cho nên lấy được 65 thành ở Lĩnh
Ngoại, thu lại hết đất cũ Nam Việt (tức lãnh thổ thời Triệu Đà), cũng là bậc hào kiệt trong nữ lưu. Song vì
trời không giúp họ Lạc nên quân Hán sang xâm, nếu bấy giờ có vua anh hùng tài
lược thì nhà Hán đâu dám dòm ngó đến đèo Mai Lĩnh”.
Đọc Đại Việt sử ký toàn thư chắc khó hình dung nổi cuộc chiến mở đầu
cho lịch sử chống ngoại xâm giữ nước vĩ đại của Hai Bà diễn ra thế nào, triều đại
độc lập Trưng Vương như thế nào? Thậm chí còn có cảm giác quân Hai Bà chỉ là
toán quân ô hợp, cuộc nổi dậy của Hai Bà chỉ là bộc phát vì mối thù riêng, vì
“bị luật pháp trói buộc”. Mặc dù Ngô Sĩ Liên giữ lại lời bình rất hào hùng,
tràn đầy tinh thần thán phục của Lê Văn Hưu, nhưng trang viết ngắn ngủi của ông
có lẽ còn có khoảng cách khá xa so với thực tiễn lịch sử. Cách chép của Lê Tung
trân trọng hơn, gợi ý cho người đọc thấy nhiều mặt hơn, nhưng cũng chỉ mới được
một lời khen: “cũng là bậc hào kiệt trong
nữ lưu”, chưa có sự đánh giá một cách toàn diện đúng với tư cách một triều
đại, một cuộc chiến chống xâm lược mở đầu trong lịch sử giữ nước của dân tộc.
Các sử gia xưa nói chung đều có ý lý giải nguyên nhân thắng lợi của Mã Viện là
Hai Bà là “nữ chủ”. Tuy vậy về sau, cách nhìn nhận của các sử gia dường như
cũng có điều chỉnh, công bằng hơn. Ngô Thì Sĩ viết: “Trưng Vương là đàn bà góa, búi tóc đứng lên, những con trai trong nước
đều cúi đầu chịu bà chỉ huy, các quan to ở năm mươi thành cũng đều nín hơi
không dám kháng cự. Lưu Văn Thúc là người diệt được quân hùng, chống nổi đại địch,
mà khi tập binh khiển tướng, còn phải ăn trưa ngủ muộn lo nghĩ cơ mưu. Mã Phục
Ba làm cỏ nước Tiên Linh, phá tan đất Tham Lang, mà khi đóng quân ở Lãng Bạc,
cũng phải lo xa nghĩ kỹ, náu mình ở bên hồ sâu. Tiếng tăm hùng dũng của Bà chấn động cả Trung Hoa, cơ nghiệp
dọc ngang trời đất, thật là anh hùng.” (Việt sử tiêu án)
Nguyễn Nghiễm thì viết: “ ... Như lũ Tô Định có thể nào dung túng cho
chúng làm càn một ngày nào được nữa. Bà Trưng nổi giận khích lệ đồng bào, nghĩa
binh đi đến đâu, gần xa đều hưởng ứng, năm mươi thành Ngũ Lĩnh đều khôi phục được
hết, dân sự đang khổ sở đắng cay, lại được trông thấy mặt trời. Bà thật quả là
bậc anh hùng hơn người nhiều lắm. Tuy rằng một đám quân mới tập hợp, mới nhóm
lên đã tan vỡ, nhưng cũng hả được lòng phẫn uất của thần, nhân. Lại còn điều
đáng cảm động là cơ nghiệp phú cường của họ Triệu bị cướp đoạt vì tay một con
đàn bà ở Hàm Đan, thời đại chìm đắm của đất nước gần thu phục được, do một nữ
chúa ở Mê Linh; mà bọn tu mi thời bấy giờ cam chịu cúi đầu bó tay làm tôi tớ
cho người, chả đáng hổ thẹn lắm sao!” (Việt
sử tiêu án).
Tuy nhiên để có thể điều chỉnh được
cách nhìn nhận như thế, các nhà sử học chắc phải bằng con đường thư tịch ngoài
sử. Chẳng hạn vì sao biết được trận Lãng Bạc làm cho Mã Viện “lo xa nghĩ gần náu mình bên hồ”, chính
là nhờ vào những tài liệu truyện, ký mà một nguồn là An Nam
chí lược do Lê Tắc thu thập đưa vào. Trong câu chuyện về Mã Viện, Lê Tắc có
chép đoạn văn sau:
“Mã
Viện khi đã dẹp yên Giao Chỉ, có giết trâu bò, lọc rượu đãi quân sĩ. Trong lúc
yến tiệc, Viện thong thả nói với liêu thuộc rằng; ‘Người em họ của ta tên là
Thiếu Du thường hay thương ta khẳng khái có chí lớn và nói: Kẻ sĩ sinh ở đời, miễn sao vừa đủ ăn mặc, đi
cỗ xe tầm thường, cưỡi ngựa xấu xí, làm chức lại thuộc trong quận, giữ phần mộ
của tổ tiên, làng xóm cho là người hiền, như vậy thì đủ rồi. Còn như ham muốn
cho dư dũ, thì chỉ là mình tự làm khổ mình đó thôi. Hồi ta ở giữa Lãng Bạc
và Tây Lý, chưa diệt được giặc (Mã Viện chỉ Hai Bà Trưng), dưới thì nước lụt,
trên thì khói mù, khí độc hừng hực, xem lên thấy chim diều bay là là rơi xuống
nước, nhớ lại lời nói thời bình của Thiếu Du, ta tiếc không làm sao được như vậy!’
”.
Lê Tắc còn trích được bài thơ của Tô
Đông Pha viết về câu chuyện lùm xùm năm xe ý dĩ Mã Viện chở về từ Giao Châu và
nói cuộc khởi binh của Hai bà Trưng làm “rung động hơn sáu mươi thành”. ...
Tuy nhiên, muốn hiểu được các ý tứ sau
đây của Lê Tung (và các sử gia khác): “chị em đều có tiếng dũng lược, tụ họp người
các bộ, hăng hái dấy đội quân hùng mạnh, lững lẫy uy danh, quận huyện hưởng ứng”,
“sáu mươi lăm thành” là như thế nào,
chắc chắn phải tìm thêm ở nguồn dã sử và tục thờ cúng trong dân gian. Chắc chắn
không phải vô cớ mà hiện ở Quảng Tây còn nhiều đền thờ “Vua Bà”, “Mụ Trưng”, “Mụ
Trắc” và đền thờ các tướng vua Bà. Sứ thần các triều đại Việt Nam đi sứ Trung
Quốc phần nhiều đều có dịp thăm viếng một số ngôi đền ấy. Ông Trần Đại Sĩ (ở
Pháp) trong một dịp làm việc ở Trung Quốc có tìm được ngôi miếu thờ ba vị tướng
của Vua Bà và cả đôi câu đối cho phép không còn lo lầm lẫn nữa, như sau:
Câu thứ nhất: Khẳng khái phù Trưng thời bất lợi,
Đoạn trường trục Định, tiết can vân.
Ông Trần Đại Sĩ dịch là:
Khẳng khái phù vua Trưng, ngặt
thời của Ngài không lâu.
Ðuổi được Tô Ðịnh, nhưng đau lòng thay, phải tự tận, khí tiết ngút từng mây.
Ðuổi được Tô Ðịnh, nhưng đau lòng thay, phải tự tận, khí tiết ngút từng mây.
Câu
thứ hai: Giang-thượng tam anh phù nữ chúa,
Bồ Lăng bách tộc khốc thần trung.
Bồ Lăng bách tộc khốc thần trung.
Ông Trần Đại Sĩ dịch là:
Trên sông Trường Giang, ba vị anh hùng phò tá nữ chúa.
Tại bến Bồ Lăng, trăm họ khóc các vị thần trung thành*.
Trên sông Trường Giang, ba vị anh hùng phò tá nữ chúa.
Tại bến Bồ Lăng, trăm họ khóc các vị thần trung thành*.
Ở Việt Nam nguồn
tư liệu này còn phong phú hơn nhiều. Rất nhiều nơi có đền thờ Hai Bà cũng như
các tướng nam, tướng nữ của Hai Bà, thiên thần có, nhân thần có, đến nay vẫn rất
tôn nghiêm, khói hương không ngớt. Chúng ta không tìm đâu ra trong chính sử những
tên tuổi Lê Chân, Bát Nàn ... và nhiều tên tuổi khác được thờ phụng tại các đền
thờ rải rác khắp các tỉnh mà hiện nay còn chưa thống kê hết. Cũng có một (hay còn
nhiều nữa?) ngôi đình như ở xã Thanh Cao tình Hà Tây cũ (nay thuộc Hà Nội) thờ
Cai Công, một vị tướng của Hai Bà “văn võ song toàn”. Sau cuộc chiến thất bại,
Cai Công đã về làng mở trường dạy học, cả văn và võ, trở thành một vị thày đức
độ; người dân thờ làm thành hoàng, đến nay vẫn cúng giỗ... Tất nhiên người đọc
có những băn khoăn bởi những yếu tố huyền ảo trong các thần tích, phải giải mã
như thế nào để tìm thấy cái lõi sử thực, nhất là hầu hết các thần tích đều do
“một tay” Nguyễn Bính chấp bút, hầu như đều có chung một kiểu bố cục. Rất may,
bản Thần tích xã My Khê đã cung cấp một mẫu thần phả mà tác giả là nhà sử học
tên tuổi Lê Tung. Lê Tung đỗ Tiến sĩ năm 1481, năm 1514 khi đang giữ chức Lễ bộ
Thượng thư Đông các đại học sĩ kiêm Tế tửu Quốc tử giám, ông được vua Lê Tương
Dực giao viết Việt giám thông khảo tổng
luận. Với tính chất của việc bàn tổng quát và thông khảo, Lê Tung đã viết
đoạn về Hai Bà Trưng đã dẫn. Trong Thần phả này, ông kể chuyện âm phù của hai
công chúa song sinh Nguyệt Thai Nguyệt Độ. Hai công chúa không phải tướng của
Hai Bà Trưng nhưng là “thần”1, những vị thần đã được hả giận khi cuộc
chiến của Hai Bà thắng lợi. Đọc thần phả cũng có thể thấy sự tình nguyện ủng hộ
của nhân dân Đông Khu (xã My Khê) với Hai Bà, nơi đây cũng là một căn cứ đóng
quân của Hai Bà trong cuộc chiến với Tô Định. Nhưng điều quan trọng hơn là Lê
Tung còn cho biết những cuộc hội họp tướng sĩ, kế hoạch chia quân tiến đánh, sự
phục tùng, tinh thần chiến đấu của các tướng sĩ, sự hùng hậu của lực lượng quân
đội,.. của Hai Bà. Một chân dung Trưng Nữ Vương có phần rõ nét hơn và như có phần
“minh họa” cho ý kiến của ông ở thiên Tổng
luận ... Có lẽ Lê Tung đã thu thập tư liệu từ những câu chuyện truyền miệng
trong dân gian, để rồi ông “văn bản hóa” thành bản thần tích lưu lại cho dân? Cách
đây khá lâu, nhà nghiên cứu Nguyễn Tuấn Lương (Viện Hán Nôm) có công bố một bản
Thần tích về Hai Bà Trưng, trong đó ghi được một bài Hịch kêu gọi quân dân của
vua Bà trước trận chiến... Nếu kiếm tìm
có thể sưu tầm được nhiều tư liệu hơn nữa. Đúng là phải nên coi Thần tích như một
nguồn dã sử, sự thờ cúng, nhiều đền chùa đình miếu là những cứ liệu có “nguyên
mẫu” người thật việc thật lịch sử, để từ đó bồi đắp cho những thiếu sót của sử
thư. Thần phả xã My Khê và di tích đền miếu thờ thần của xã có một giá trị lịch
sử quý báu và rất đáng trân trọng ở chỗ đó. Hy vọng các di tích như thế sẽ giúp
ích nhiều cho việc nghiên cứu lịch sử dân tộc.
Cũng có
thể liên hệ thêm đến một sự kiện nữa: Lực lượng “dân quân du kích” trong công cuộc
kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông của nhà Trần.
So với những trang viết về triều đại Hai Bà Trưng thì những
trang viết về triều Trần của Đại Việt sử
ký toàn thư đã rất phong phú và rất hay. Riêng về cuộc kháng chiến chống
Nguyên Mông sử viết khá đầy đủ, từ đấu tranh ngoại giao, bàn bạc kế hoạch, chuẩn
bị lực lượng, các bước, các giai đoạn, các chính sách ... của cuộc chiến cũng
như hậu chiến là khá rõ nét. Hậu thế có thể biết được lòng dân qua ghi chép về Hội
nghị Diên Hông, về đội quân Hà Bổng, về hai chữ “Sát Thát” trên cánh tay quân
sĩ ... Tuy vậy, cũng còn rất nhiều nơi vua và các tướng soái nhà Trần đã từng
trú quân, ém quân, lập hành dinh, hội họp, dự trữ lương thực, khí giới, tuyển
quân ... và nhiều tướng lĩnh “từ nhân dân mà ra, vì nhân dân chiến đấu”, xong
việc “dáo gươm vứt bỏ”, lại trở về làm người dân thường nơi thôn xóm hoặc lặng
lẽ trở về thiên giới ... mà chính sử không ghi được hết. Những người anh hùng,
những làng xóm anh hùng “vô danh” hoặc ẩn danh ấy phải tìm trong dân gian, ở những
tên làng, tên núi, tên sông và ở những ngôi đền, ngôi miếu mà nhân dân địa
phương vẫn phụng thờ, mặc dù có khi còn quên cả sự tích. Ví như đền Trần Thương
ở Hà Nam, là kho lương thực của nhà Trần, núi Thuốc ở Quảng Ninh, tương truyền
là vườn thuốc của Trần Hưng Đạo, còn có nhiều nơi mang tên Gạo, Thóc cũng như
các chùa Thái Vi, vùng Vũ Lâm ở Ninh Bình ... đều là những dấu tích rất đáng
ghi nhớ về công cuộc dựng nước giữ nước của nhà Trần. Chẳng hạn nhờ tấm bia ghi
công đức làm chùa Hưng Phúc ở Hoằng Hóa, Thanh Hóa mà biết được có một vị hào
trưởng trong làng đã huy động trai đinh trong hương chặn đánh toán quân Toa Đô ở
Cổ Bút khi chúng theo đường biển đi tắt qua Cổ Khê để tiến ra Thăng Long trong
cuộc xâm lược Việt Nam lần thứ hai (1285). Tấm bia ấy giúp cho các nhà nghiên cứu
hiểu thêm đường đi của mũi tiến công của Toa Đô từ Chiêm Thành đánh ra ... Gần
đây các nhà nghiên cứu tiếp cận được với ngôi đình ở xã Ngọc Động, Tiên Lãng, Hải
Phòng có thần phả ghi về một vị tướng cầm quân tham gia đánh quân Nguyên, ông mất
sớm, sau đó hiển linh và âm phù chữa thuốc cho dân một vùng, bởi gia đình ông
có nghề làm thuốc, đến nay ngôi đình vẫn còn, vẫn được nhân dân cầu cúng; đền
thờ thánh mẫu ở cửa biển Kỳ Hoa (Hải Khấu thuộc xã Kỳ Ninh huyện Kỳ Anh, Hà
Tĩnh) cũng cho thẻ chữa bệnh, Công chúa Huyền Trân sau khi ở Chiêm Thành về đi
tu tại một ngôi chùa ở Hổ Sơn, Vụ Bản, Nam Định cũng chữa thuốc cứu được nhiều
người bệnh ... Thần tích về Dụ Tôn của My Khê cũng nằm trong mạch nguồn ấy. Thần
tích cho biết về một vị tướng được dân cử, đã có công trong cuộc chống xâm lược
Nguyên. Ông là một thanh niên trẻ có tài “ở lẫn trong dân”, đã hưởng ứng lời
kêu gọi của vua Trần Nhân Tông, tuyển được hơn nghìn hương binh đến xin đi đánh
giặc. Sau khi gặp vua, ông được vua phong chức Đô thống chế đại tướng quân, đem
quân đi tuần phòng các nơi. Ông đã ở lại My Xuyên đóng đồn phòng giặc, lại được
nhân dân My Xuyên ủng hộ, hơn chục người xin làm gia thần, nhân dân xin được thờ
phụng ông sau này... (Dụ Tôn phảng phất hình mẫu chàng thiếu niên Trần Bình Trọng
thời Đông A). Nếu ”bóc” đi những tình tiết huyền ảo của một thần tích có thể
tìm thấy nhiều cốt lõi sử thực, chẳng hạn trận tuyến chống giặc của nhà Trần,
tinh thần tham gia tự nguyện của nhân dân Kinh Bắc (quê hương Dụ Tôn) và My
Xuyên, như một minh chứng cho lời hứa “Quyết đánh” của các bô lão ở Hội nghị
Diên Hồng, tinh thần xả thân vì đất nước mà chính sứ giả nhà Nguyên sang Việt
Nam năm 1293 (sau cuộc chiến) còn thấy dấu tích ở những dòng chữ thích trên ngực
những người trai trẻ thôn quê “nghĩa dĩ quyên khu, hình vu báo quốc” (vì nghĩa
quên thân, thể hiện ở lòng báo ơn nước). Quả là những sự việc như vậy sử sách
không ghi hết được, và những ngôi đình, đền, miếu với các thần tích sẽ bổ sung
thêm được rất nhiều. (Ví như hai bản Thần tích xã My Xuyên với di tích hiện vật
còn lại), vì lẽ đó thần tích thần phả, có một giá trị lịch sử rất đáng trân trọng.
Tôi nghĩ rằng các ngành chuyên môn nên chăng phải có một cuộc
tổng kiểm kê các di tích lịch sử, sưu tầm, dịch, in và nghiên cứu cẩn thận để từ
các thần tích, chọn lọc những điều có thể gợi ý, bổ sung cho những chỗ chính sử
còn bỏ sót. Đó cũng là việc làm cần thiết và cũng khá cấp bách của sử học, cả
văn học và cả ngành Hán Nôm học, bởi giấy tờ, cả gỗ đá cũng có thể bị mưa nắng
và sự vô tâm của con người làm cho biến thành hư vô trong chốc lát là một khả
năng cũng rất hiện thực. Đó là vấn đề mà những người có tấm lòng với cội nguồn
rất băn khoăn, mong ngành văn hóa quan tâm./.
TTBT
---------------
Chú thích:
1. Về công chúa Nguyệt
Thai, Nguyệt Độ, có nhiều Thần tích, có bản chép hai bà là người trần, sau khi
thắng giặc Tô Định mới hiển thánh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét