Đây là mượn ý câu của Lý Giác, sứ Tàu đời nhà Tống, “thiên
ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu” tạm dịch là ngoài trời còn có trời,
đừng có coi thường. Viên sứ Tàu sống ở thế kỷ thứ X này xem ra hiểu biết
hơn, có viễn kiến hơn ngài ngoại trưởng họ Vương thế kỷ XXI (không hiểu có phải
hậu duệ của Tổng binh Vương Thông thế kỷ XV đời nhà Minh bị nghĩa quân Lê Lợi đánh
cho tơi tả để Nguyễn Trãi viết trong Bình Ngô đại cáo: “ra đến
biển chưa thôi trống ngực, về đến Tàu còn toát mồ hôi”) dám tuyên bố liều
mạng và xấc xược rằng: việc xây đắp các đảo nhân tạo, trong đó có Gạc Ma vừa
cướp của Việt Nam, là xây trên sân nhà chúng nó.
Câu thơ của Lý Giác làm vào năm 987 khi đi sứ sang An Nam (có sách
ghi là 971). Bài thơ nói lên cảm nhận của viên sứ Tàu về nước ta sau chiến
thắng của Ngô Quyền dìm chết quân xâm lược nhà Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm
938 “một vũ công cao cả, vang dội đến nghìn thu há phải chỉ lừng lẫy ở một
thời bấy giờ mà thôi đâu” như lời bàn của Ngô Thì Sĩ. Tiếp đó là chiến
thắng oanh liệt của Lê Hoàn đánh tan tác quân xâm lược năm 981, giáng một đòn
chí tử vào tham vọng bành trướng của vua tôi nhà Tống. Đó là cội nguồn của lời
cảnh báo của Lý Giác, “thiên ngoại hữu thiên”, hai chữ thiên cùng
một cách đọc và cả cách viết nhưng ý tứ thì khá hàm súc.
Chữ thiên đứng trước chắc là nói về “thiên tử”
của “thiên triều” mà “trung nguyên” đứng giữa “thiên hạ”
là tâm của trời đất, còn lại đều là bọn Man, Di, Nhung, Địch. Những nước Đông
Di, Tây Nhung, Bắc Địch đều có thể bình định nhưng Nam Man là đáng ngại nhất,
phải “ưng viễn chiếu”, nghĩa là “soi cho thấu”, ngụ ý “đừng
coi thường”. Vậy là chữ thiênthứ hai là để nói về một “thiên
hạ” khác ngoài “thiên triều” của “trung nguyên”, mà ở đây là nói đến An Nam? Sử
ta còn ghi cuộc đối thơ giữa Lý Giác với nhà sư Đỗ Thuận, sứ giả của vua ta cải
trang thành một người chèo thuyền, đã gây ấn tượng mạnh đối với một nhà thơ có tầm
nhìn đáng nể khá hiếm hoi trong cương vị của một viên sứ Tàu!
Nếu không có những chiến công vang dội trên sông Bạch Đằng của Ngô
Quyền và tiếp đó của Lê Hoàn thì e cũng không thể có cái nhìn đáng nể đó của
một “quốc tử giám bác sĩ”, tước hiệu của Lý Giác, khi được vua nhà Tống chọn cử
làm sứ thần sang nước ta. Có lẽ trong lịch sử mối bang giao giữa nước ta với
“thiên triều” thì quãng thời gian dễ thở nhất là thời nhà Lý, sau chiến thắng
lẫy lừng của Lý Thường Kiệt. Cũng chính trong bối cảnh đó mà người ta nói đến
Tuyên Ngôn Độc lập lần thứ nhất với “Nam quốc sơn hà Nam đế cư. Tiệt
nhiên định phận tại thiên thư”. Bằng chữ đế đầy thách thức
đó, từ thế kỷ XI ông cha ta đã khẳng định sự tồn tại của một quốc gia độc lập
và có chủ quyền, vừa bác bỏ sự ngạo mạn của “thiên triều” kỳ thị Hoa Di, phủ
nhận vai trò độc tôn tự xưng của hoàng đế Trung Hoa.
Có ngẫm sâu vào điều này mới thấy khí phách của ông cha mình không
bao giờ chịu khuất phục bọn bành trướng phương Bắc, đồng thời cũng thấy tư
tưởng bành trướng đó ăn sâu vào cốt tuỷ của bọn xâm lược. Cái cột đồng Mã Viện
dựng lên từ những năm 40 (đầu CN) với lời hăm doạ “đồng trụ chiết Giao chỉ
diệt” vẫn là tâm địa nham hiểm của bá quyền phương Bắc xuyên suốt lịch sử.
Đến thế kỷ thứ XVII mà Sùng Trinh, vua nhà Minh, vẫn còn lấy biểu tượng ác hiểm
đó để ra câu đối Đồng trụ chí kim đài dĩ lục (Cột đồng đến
nay rêu vẫn mọc). Sứ thần Giang Văn Minh đã đánh gục sự ngạo
mạn của Sùng Trinh với vế đối Đằng Giang tự cổ huyết do hồng (Sông
Đằng tự bấy máu còn loang) dù biết rằng mình sẽ chết vì vế đối này.
Không biết đoàn ông Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng cấp tập được mời
sang Tàu ngay sau khi có tin ông sẽ đi Mỹ liệu có học được chút nào khí phách
của ông cha để được xem là “Sứ bất nhục quân mệnh, khả vi thiên cổ anh hùng” (tức
là Sứ thần không làm nhục mệnh vua, xứng đáng là anh hùng thiên cổ)
như Giang Văn Minh được phong tặng? Những chuyện thâm cung bí sử của những
thương thảo thoả thuận không công bố mà giới báo chí nước ngoài gọi là mật
đàmhay những cái nắm tay dưới gầm bàn ra sao thì chịu, vì
trên báo chí chính thống thì không có dòng nào nói đến chuyện này cả. Nhưng từ
Mã Viện, qua Sùng Trinh và đến ông Tập Cận Bình, người đồng chí “cùng chung ý
thức hệ” (với các đồng chí kiên định lập trường xã hội chủ nghĩa của ta) thì
cái điều ăn sâu vào cốt tuỷ của “thiên triều” muốn uy hiếp cả “thiên hạ” vẫn
chẳng có gì thay đổi cả. Thì chẳng phải cái lưỡi bò ham hố của chúng đang thè
ra muốn nuốt trọn Biển Đông đó sao?
Phải chăng cũng vì những hành động khi thì lắt léo, bịp bợm, khi
thì ngang ngược, trắng trợn của một siêu cường “hung đồ” (tên gọi mới của chủ
nghĩa bành trướng Đại Hán thế kỷ XXI trên tờ Diplomat ngày
10-06-2015) đã thúc đẩy sự xoay trục sang châu Á của Mỹ? Chính sự xoay trục đó
đang tạo điều kiện cho nhiều quốc gia châu Á mạnh mẽ hơn với bầu trời tổ quốc
mình.
Vậy là lời cảnh báo của Lý Giác từ thế kỷ thứ X đang được mở rộng
thêm biên độ và hàm lượng của nó. Chữ thiên của thế kỷ XXI xem
ra có sức biểu đạt mạnh mẽ hơn nhiều, và mấy chữ “ưng viễn chiếu” cũng
tăng thêm sức cảnh báo quyết liệt hơn. Bên ngoài “trời” của “thiên triều” họ
Tập còn có “trời” khác rộng lớn và văn minh hơn, trong đó có bầu trời của Việt
Nam đang nối liền với thế giới.
Liệu những người rồi sẽ gánh vác trọng trách đem chuông đi đánh xứ
người có nhận thức được đầy đủ bài học lịch sử mà chọn cách ứng xử để không làm
nhục đến truyền thống ông cha? Ngoài trời còn có trời, lời nhắn gửi
ấy gọi dậy những suy ngẫm mông lung nhưng lại rất thiết thực vào thời điểm tế
nhị này.
Viết nhân Ngày báo chí 21.6.2015
T.L.
(Nguồn BVN )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét