Phạm Khắc Trung
Hồn Nước Thiêng Liêng. Ảnh Internet |
Cứ theo cụ Phạm Quỳnh thì “cái nguyên tố dựng ra một
nước không phải chỉ ở thổ địa nhân dân mà thôi, cốt là ở cái ý nguyện chung của
người ta muốn cùng nhau xum vầy sinh hoạt, cùng nhau cộng thích đồng hưu, nhìn
về trước thời cùng nhau chung một cuộc lịch sử đề tạo gian nan, ngó về sau thời
cùng nhau chung một lòng hy vọng vẻ vang rực rỡ; nói tóm lại là ở một cái mối
vô hình nó ràng buộc người ta lại, làm thành một cái đoàn thể thiên nhiên mà
bền chặt, trăm nghìn vạn mớ người cùng như một người, lâm thời có thể răm rắp
đứng lên mà đối với sự ngoại hoạn. Cái mối vô hình ấy, tức là cái tinh thần lập
quốc, tức gọi là quốc hồn. Cái tinh thần ấy phấn trấn thời nước mạnh; cái tinh
thần ấy ủy mĩ thời nước suy. Có đất có người mà cái hồn chung ấy không có thời
chưa thể thành một nước được. Đất đã vào tay chủ khác, dân làm nô lệ cho người,
mà cái hồn chung ấy vẫn còn, thời dẫu phân lìa tan tác, bảy nổi ba chìm, sớm
trưa rồi cũng có ngày khôi phục. Nhìn lên mặt đất, xét cuộc sử xanh, biết bao
nhiêu nước xác thì còn mà hồn đã mất, lại biết bao nhiêu nước hồn vẫn sống mà
xác không còn. Những nước thuộc vào hạng trên thì có cũng như không, mà những
nước thuộc vào hạng dưới thì không mà vẫn có” (Bàn về cái tinh thần lập
quốc, Phạm Quỳnh, Tuyển Tập và Di Cảo, An Tiêm, Paris, 1992)
Như nước Việt Nam ta, phải kể
là một quốc gia hoàn toàn. Không những từ chủng tộc, ngôn ngữ, phong tục từ Nam
chí Bắc cùng là một, không gì gián cách nhau, mà cái tinh thần lập quốc từ xưa
đến nay đã tỏ ra vô cùng mạnh mẽ và tỉnh tao đến dường nào! Hãy cứ mở trang
lịch sử của ta ra sẽ thấy, đất nước ta cũng đã nhiều phen lâm nạn, nước mất nhà
tan, dân làm nô lệ, nhưng nhờ những cái tâm Việt đã quyện thành một mối, những
cái hồn Việt đã kết tụ cứng rắn và đồng nhất như khối kim cương, chính vì cái
“ý nguyện chung của người ta muốn cùng nhau xum vầy sinh hoạt, cùng nhau cộng thích
đồng hưu”, khiến cái hồn nước, tức “cái mối vô hình nó ràng buộc người ta lại,
làm thành một cái đoàn thể thiên nhiên mà bền chặt, trăm nghìn vạn mớ người
cùng như một người, lâm thời có thể răm rắp đứng lên mà đối với sự ngoại hoạn”,
bởi vậy mà nhân dân ta không hề biết cúi đầu khuất phục, vẫn đồng lòng mà chống
cự với quân ngoại địch, để cuối cùng vẫn đánh đuổi được kẻ cường lân, thu giang
sơn nước nhà về một mối. Nhờ ở đâu mà tinh thần lập quốc của ta mạnh mẽ và tỉnh
tao dường ấy? Phải chăng là nhờ ở sự thống nhất của cả dân tộc: thống nhất
trong việc thờ chung một Tổ Hùng Vương, thống nhất trong việc cùng tôn vinh
những vị Thần dân tộc như Thần Phù Ðổng, như Thần Núi Tản Viên....
Ngày nay, nước ta đang trong
thời cùng bỉ nên cục diện biến loạn, dân tình điêu linh khổ sở, đạo đức suy
đồi, lòng người ngao ngán, người đời chỉ say đắm trong đường công lợi, không
thiết tha gì tới nhân tới nghĩa... Mới nhìn qua thì không khỏi bi quan cho lắm,
dường như cái tinh thần lập quốc của ta có suy nhược đi nhiều, cái chí nguyện
chung của nhân dân có phần sút kém, không được vững bền như xưa? Quả thật là
như vậy, nhưng nếu xét cho tận tường thì cái bệnh suy nhược của quốc gia ta
ngày nay là do cái ngoại cảm đã để lâu năm nên thấm vào lục phủ ngũ tạng, gây
thành chứng nội thương. Cho nên việc trị liệu quan trọng ở chỗ là phải tiêu trừ
cho được cái ngoại cảm bên ngoài, và chủ yếu là phải điều dưỡng cho được cái
nội thương bên trong. Cái chí nguyện chung của nhân dân ta là YÊU CHUỘNG TỰ DO,
ngoại cảm là những bạo lực đã áp đặt lên để trấn áp tự do của con người, chính
những bạo lực đó đã làm suy thoái sự thống nhất của cả dân tộc, tạo thành chứng
nội thương.
Ðiều dưỡng nội thương có nghĩa
là khôi phục lại cái lòng tín ngưỡng ở Tổ Tiên, phục hồi lại sự thống nhất của
cả dân tộc, thống nhất trong việc thờ chung một Tổ Hùng Vương, thống nhất trong
việc cùng tôn vinh những vị Thần dân tộc như Thần Phù Ðổng, như Thần Núi Tản
Viên.... Trị liệu ngoại cảm là khơi lại cái tâm kiên trì, cái chí bất khuất, và
lòng tự tin ở sức mình trong quần chúng, để cùng nhau biến cái ý nguyện chung
là yêu chuộng tự do đó thành hiện thực. Một khi hồn nước đã được phục hồi, thì
vẫn với giang sơn ấy, vẫn với đất nước ấy, vẫn với con người ấy, liệu sẽ còn có
vấn đề nào mà không được giải quyết một cách tốt đẹp nữa chăng?.
Ðã trộm nghĩ như thế, nay tình
cờ bắt gặp một bài thuốc trị liệu ngoại cảm linh diệu trị giá một đời người do
ông Trần Quán Niệm sưu tập, được đăng trên Lướt Sóng số 32, xin mạn phép được
trích bài “Chiêu Hồn Nước” của Liệt Sĩ Phạm Tất Ðắc ra đây để giới thiệu với
bạn hữu xa gần. Ðược biết “Tráng sĩ Phạm Tất Ðắc mới 18
tuổi, học sinh trường Bưởi, vì căm giận người Pháp cai trị khắc nghiệt mà dân
ta thì trình độ chưa cao, quan lại thì hèn yếu khiếp nhược, cam tâm làm nô lệ,
nên đã viết ra một bài văn rất cảm động, mà mỗi giòng, mỗi chữ là một lời khẳng
khái, tràn đầy tâm huyết, đó là bài “Chiêu Hồn Nước”. Bài này được nhà in Thanh
Niên in trên báo. Chỉ vài ngày sau, tráng sĩ Phạm Tất Ðắc và viên quản lý nhà
in bị mật thám bắt. Khi bị chất vấn, ông khẳng khái đáp rằng “tự đầu óc tôi
nghĩ ra, tự tay tôi viết xuống, không ai xúi dục tôi cả”. Ông bị tù đến nåm 21
tuổi mới được thả. Ông mất năm 26 tuổi vì thời gian bị tù đã bị thực dân Pháp
tra tấn dã man” (Trần Quán Niệm, Lướt Sóng số 32).
CHIÊU HỒN NƯỚC
Bao nhiêu triệu trẻ già trai
gái
Bốn nghìn năm con cháu Hồng
Bàng
Cũng nhà cửa, cũng giang san
Thế mà nước mất nhà tan hỡi
trời
Nghĩ lắm lúc đương cười lại
khóc
Muốn ra tay, ngang dọc, dọc
ngang
Vạch trời thét một tiếng vang
Cho thân tan với giang san
nước nhà
Đồng bào hỡi con nhà Hồng Việt
Có thân mà chẳng biết liệu đời
Tháng ngày lần lữa đợi thời
Ngẩn ngơ ỷ lại ở người, ai
thương
Nay sóng gió bốn phương dữ dội
Có lẽ nào ngồi đợi mãi sao?
Đồng bào chút giọt máu đào
Thương ơi, tội nghiệp, đời nào
xót đây
Nên mau mau dậy ngay kẻo muộn
Mà xót thương đến chốn Nhị
Nùng
Xưa kia cũng lắm anh hùng,
Dọc ngang trời đất, vẫy vùng
bể khơi
Xưa kia cũng lắm người hào kiệt
Trong một tay nắm hết sơn hà
Nghìn thu gương cũ không
nhòa
Mở mày, mở mặt con nhà Lạc
Long
Non sông vẫn non sông gấm vóc
Cỏ cây xưa vẫn mọc tốt tươi
Người xem cũng dáng con người
Cũng tai cũng mắt ở đời khác
chi
Cảnh như thế, tình thời như
thế
Sống làm chi, sống để làm chi?
Đời người đến thế còn gì?
Nước non đến thế còn gì nước
non
Nghĩ thân thế héo hon tấc dạ
Trông non sông lã chã giòng
châu
Một mình cảnh vắng đêm thâu
Muốn đem máu đỏ, nhuộm màu
giang san
Ngọn gió lọt đèn tàn hiu hắt
Tiếng quốc kêu dậy mặt anh
hùng
Nghiến răng nuốt cái thẹn
thùng
Mà chiêu hồn cũ lại cùng non
sông
Hồn hỡi hồn, con Rồng cháu Lạc
Bấy nhiêu lâu đói khát lầm
than
Bấy lâu thịt nát xương tan
Bấy lâu tím ruột, thâm gan vì
hồn
Hồn hỡi hồn, kìa non nước cũ
Bấy nhiêu lâu mặt ủ mày chau
Bấy lâu ngậm tủi, nuốt sầu
Bấy lâu hèn kém vì đâu hỡi hồn
Trông bốn bể bồn chồn dạ ngọc
Ngắm năm châu khôn khóc nên
lời
Đêm khuya cảnh vắng êm trời
Khôn thiêng chăng hỡi, hồn ơi
hồn về
Hồn trở về chớ ham rượu thịt
Chớ tham nhà cao tít mấy từng
Kìa con chim ở trên rừng
Kiếm mồi đâu có lạc chừng,
quên cây
Hồn trở về đừng say gái đẹp
Mà nặng tình kẻ khép phòng the
Đường đường một đấng trượng
phu
Lẽ đâu hồn chẳng đền bù non
sông
Hồn trở về chớ mong giàu có
Mà ước ao ngựa nọ xe kia
Nghênh ngang mũ áo, râu ria
Trăm nghìn năm vẫn còn bia
miệng cười
Hồn có về cõi đời chớ chán
Mà vội đem lòng nản việc trần
Bát cơm, tấm áo, manh quần
Hồn ăn, hồn mặc, nợ nần thế
gian
Hồn trở về bấm gan mà chịu
Cảnh biệt ly tình, hiếu đôi
đường
Trượng phu chí ở bốn phương
Lẽ đâu hồn chịu vấn vương xó
nhà
Hồn trở về nguyệt hoa chi nữa
Mà thoi đưa lần lữa tháng ngày
Xưa nay những kẻ tình say
Lòng mê có nghĩ việc hay bao
giờ
Hồn trở về chớ chờ sức yếu
Mà hồn không định liệu dọc
ngang
Hoặc hồn bảo chẳng biết đàng
Hoặc hồn không muốn vội vàng
làm ngay
Hoặc hồn sợ tai bay vạ gió
Mà hồn đành phải bỏ non sông
Hoặc hồn quen thói phục tùng
Mà hồn cam chịu cùng giòng
ngựa trâu
Hoặc hồn thường cháo rau no
đói
Mà hồn riêng mong mỏi cơ hàn
Hoặc hồn đã trải lầm than
Mà hồn bỏ mất cái gan tung
hoành
Hoặc hồn ở thị thành phố xá
Hoặc hồn trong túp lá lều
tranh
Hoặc hồn ở chốn rừng xanh
Hoặc hồn lẩn quẩn ở trong sơn
hà
Hoặc hồn ở nước nhà chật hẹp
Hoặc hồn đi ẩn nấp nước ngoài
Đêm khuya cảnh vắng im trời
Khôn thiêng chăng hỡi hồn ơi
hồn về
Hồn trở về đừng mê mẩn nữa
Tính nết xưa phải sửa từ đây
Hồn về hồn cố cho nhờ
Anh em Hồng Lạc, cõi bờ Việt
Nam
Đêm tịch mịch canh trường man
mác
Ve kêu sầu dế hát thâu canh
Còn chi sung sướng vẻ vang
Bằng đem da ngựa chiến tràng
bọc thây
Hồn trở về làm ngay ý muốn
Chớ rụt rè sớm muộn nào nên
Lẽ thường thành bại đôi bên
Chớ đo đắn quá mà quên việc
mình
Hồn trở về hy sinh quyền lợi
Mà tận tâm đối với nước non
Cho dù thịt nát xương mòn
Cái bầu nhiệt huyết vẫn còn
như xưa
Hồn trở về hồn mơ hồn mộng
Nên hồn thành ra giống ngựa
trâu
Hồn về hồn kíp đòi mau
Tự do hành động mặc dầu dọc
ngang
Hồn trở về bền gan dốc trí
Chớ có thèm cái vị cao lương
Tháng ngày dưa muối rau tương
Còn hơn rượu thịt mà nương nhờ
người
Hồn trở về xoay trời đất lại
Hồn trở về tát hải, đạp sơn
Chớ nề gió kép mưa đơn
Mà đem gan chọi với cơn phong
trần
Hồn hỡi hồn xa gần nghe thấy
Thì vùng lên kết dậy mà về
Hoặc hồn ở chốn thôn quê
Hoặc là hồn ở phủ kia, lầu này
Nước non cũ bấy nay khao khát
Ngày ấy qua, ngày khác lại qua
Mấy phen lệ nhỏ máu sa
Mấy phen xót xót sa sa lòng
vàng
Mong hồn tỉnh hồn càng không
tỉnh
Mong hồn về hồn định không về
Non sông hồn bỏ lời thề
Cho non sông chịu trăm bề lầm
than
Hồn hỡi hồn, giang san là thế
Giống Lạc Hồng tôi kể hồn hay
Kể từ hồn lạc đến nay
Đêm đêm khóc khóc, ngày ngày
than than.
Cũng có kẻ lên ngàn đổ máu
Cũng có người nương náu phương
xa
Có người bỏ cửa bỏ nhà
Có người lo nghĩ tuyết pha mái
đầu
Cũng có kẻ làm trâu làm ngựa
Cũng có người đầy tớ con đòi
Cũng thằng bán giống buôn nòi
Khôn thiêng chăng hỡi, hồn coi
cho tường
Có mồm nói không đường mà nói
Có chân tay người trói chân
tay
Mập mờ không biết dở hay
Ù ù cạc cạc công này việc kia
Hồn hỡi hồn, đêm khuya cảnh
vắng
Hồn nghe hồn có đắng cay
không?
Tôi đây cũng giọt máu hồng
Cũng xương cũng thịt con Rồng
cháu Tiên
Trông thấy cảnh mà điên mà dại
Trông thấy tình mà dại mà điên
Mà sao không thể ngồi yên
Sa câu gan ruột tôi biên mời
hồn
Hồn nghe thấy nên chồn tấc dạ
Hồn nghe xong nên khá mà về
Chớ đừng tỉnh tỉnh mê mê
Chớ đừng đo đắn trăm bề nông
sâu
Hồn trở về non sông nước cũ
Mà mau mau giết lũ tham tàn
Mau mau giết lũ hại dân
Túi tham dồn chứa bạc vàng của
dân
Hồn trở về cho dân tỉnh lại
Không ngu ngu dại dại như xưa
Không còn khổ nhọc sớm trưa
Không còn nắng nắng, mưa mưa
dãi dầu
Hồn trở về mau mau hồn hỡi
Hồn trở về tôi đợi tôi mong
Hồn về tô điểm non sông
Hồn về dạy dỗ con Rồng cháu
Tiên
Ngọn gió lọt đèn tàn hiu hắt
Dân không còn nước mất sao còn
Hỡi hồn nước nước non non
Hồn về tôi sẵn lòng son giúp
hồn
Tôi đây cũng không khôn cho
lắm
Nhưng cũng không dại lắm cho
nhiều
Tôi nay chỉ một lòng yêu
Nên mong nên mỏi nên chiêu hồn
về
Hồn hỡi hồn, hồn về hồn hỡi
Hồn hỡi hồn, hồn hỡi hồn ơi
Đêm khuya cảnh vắng êm trời
Khôn thiêng chăng hỡi hồn ơi
hồn về.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét