Trung tâm Minh Triết
kính mong các vị học giả, các nhà nghiên cứu hưởng ứng bằng việc thể hiện sự
quan tâm của mình và sưu tầm, viết bài tham luận về thân thế, sự nghiệp, nhân
cách của Nguyễn Công Trứ.
Bài vở xin được gửi cho
ông Nguyễn Khắc Mai, Giám đốc Trung tâm Minh Triết,
Email:
maiminhtriet@gmail.com
*****
Nguyễn Công Trứ – Mẫu hình kẻ sĩ muôn đời
Nguyễn Khắc Mai
Nguyễn Công Trứ, nhà trí thức lớn của Việt Nam, quê ở xã
Xuân Giang, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông đậu Giải nguyên (1819), làm rất
nhiều chức trong triều: Tri huyện, Tư nghiệp Quốc Tử Giám, Thượng thư, tổng
đốc, nhiều lần bị giáng chức, rồi lại được phục chức...
Ông nổi tiếng là người đa tài. Ông là tác giả công trình
khai hoang, làm thuỷ lợi lập xóm làng tại huyện Kim Sơn, Ninh Bình và Tiền Hải,
Thái Bình. Nhân dân biết ơn đã lập đền thờ ngay khi ông còn sống. Ông để lại
nhiều tác phẩm thơ văn, chủ yếu viết bằng chữ Nôm. Đặc biệt là 60 bài Hát nói,
khiến ông trở thành người định hình và đưa thể hát nói, một thể đặc sắc
trong ca trù – một loại hình nghệ thuật
độc đáo của Việt Nam, lên đỉnh cao (hiện được
UNESCO công nhận là di sản văn hoá phi vật thể thế giới).
Qua cuộc đời và thơ văn của ông, hậu thế nhận ra ở ông mẫu
hình kẻ sĩ muôn đời.
Ông là người luôn khẳng định và đề cao cá nhân và tự do
thật trái ngược hẳn trật tự của xã hội Nho giáo đương thời. Ông nêu lên quan
niệm “nhân sinh quý thích chí”, khẳng
định cái nhân cách cứng cỏi, ngạo nghễ, tự do tự tại bằng câu thơ nổi tiếng:
Kiếp sau xin chớ làm người,
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo.
Ông khẳng định một giá trị lớn của đời người là phải làm
đầy đủ trách nhiệm cá nhân trong xã hội. Ông viết “Trong vũ trụ không có gì
không phải là phận sự của ta” (Vũ trụ nội
mạc phi ngô phận sự), hoặc “Đã mang
tiếng ở trong trời đất, phải có danh gì với núi sông”.
Khẳng định cá nhân tự do, ông ca tụng “hành lạc” – niềm vui, thú vui, nghề chơi, cuộc ăn chơi ... Ông nói
“ở đời, cái quý nhất là được thoả thích ý mình”, ông có câu thơ “Người đời
không vui chơi, dẫu sống ngàn tuổi cũng như chết non” (Nhân sinh bất hành lạc, Thiên tuế diệc vi thương).
Ông dung nạp vào mình cả những tư tưởng nhân văn của Nho
giáo, cả những tư tưởng phóng khoáng của Lão – Trang, và đặc biệt là thái độ
sống mang đậm chất dân gian Việt, ngày nay theo lý thuyết nhân loại học, bảo
ông là “type” người Thông Thái (Homo
sapien), là “type” Homo habilis - người giỏi giang, mà bảo ông là loại người
Homo luden – người vui chơi, đều đúng cả. Ông đã tiếp nhận tất cả những gien ưu
trội của loài người chăng ?
Đánh giá công trạng của ông, tài trí của ông, phong cách và
lối sống của ông, 160 năm qua sử sách ghi chép rất nhiều mà truyền thuyết dân
gian kể lại cũng lắm. Xin trích ở đây lời kết của Đại Nam Chính Biên Liệt
Truyện về Nguyễn Công Trứ: "Công Trứ
là người trác lạc, có tài khí, có tài làm văn càng giỏi về quốc âm, làm ra thi
ca rất nhiều khí hào mại phổ đấy trong
âm luật, đến nay hãy còn truyền tụng. Trứ làm quan thường bị bãi cách rồi lại
được cất nhắc lên ngay; tỏ sức ở chiến trường nhiều lần lập được công chiến
trận. Buổi đầu Trứ lĩnh chức doanh điền sửa sang mới có trong một năm mà các
việc đều có đầu mối, mở mang ruộng đất tụ hợp lưu dân thành ra mối lợi vĩnh
viễn. Khi tuổi già về nghỉ tức thì bỏ qua việc đời chơi thú sơn thủy, trải hơn
mười năm có cái hứng thú phớt thoảng ra ngoài sự vật. Đến nay người ta phần
nhiều tưởng đến phong độ khí khái của ông. Sau khi Trứ mất các
huyện ấp do ông lập ra dựng đền thờ".
Trong đền thờ ông ở Kim Sơn với tên Truy Tư từ (đền tưởng nhớ lại) có câu đối:
Cảm Sơn Tự, hồng diệp bạch
vân, kỷ độc phong cao thùy tục giả.
Truy Tư từ, xuân lan thu
cúc, phi hồng tuyết ẩn bán mang nhiên.
Nghĩa là:
Chùa Cảm Sơn mây trắng
lá hồng, phong cách cởi bò ai nối tiếp.
Đền Truy Tư, xuân lan,
thu cúc, hồng bay tuyết ẩn vẫn mơ màng.
Nhân dân Việt Nam đời đời nhớ công ơn của ông, giới trí
thứcViệt Nam hôm nay coi ông là tấm gương của một nhân cách cao quý và đẹp đẽ.
Giới trẻ cần tìm học ở ông những bài học làm người sáng giá./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét