Số phận long đong của học thuyết Khổng Tử
Khổng Tử và học thuyết của ông – Nho
giáo – từng trải một cuộc đời long đong lận đận tại Trung Quốc (TQ). Với tư
tưởng cốt lõi là Nhân,
mới đầu Nho giáo chỉ là một học thuyết tu thân dưỡng tính, chưa được tiểu quốc
nào dùng làm đạo trị quốc, cho dù Khổng Tử từng đích thân tới thuyết phục họ.
Thời Chiến Quốc, Mạnh Tử kế thừa và phát triển học thuyết đó thành lý
luận Nhân chính.
Đời Hán, Đổng Trọng Thư (179-104 TCN)
kết hợp với thuyết Âm dương Ngũ hành và các thuyết khác, sửa đổi Nho giáo thành
hệ tư tưởng có khuynh hướng thần học (nhấn mạnh quan hệ giữa thần quyền với
quân quyền). Hệ thống này dựa trên bạo lực của chế độ phong kiến nhưng lại được
mô tả thành Đạo Trời, “Trời không đổi thì đạo cũng không đổi”.
Nho giáo trở thành lý luận hợp pháp hóa
chế độ phong kiến chuyên chế, cung cấp cho nó một vũ trụ luận tồn tại vĩnh hằng
(nhận định của Lưu Hiểu Ba). Đổng nêu ra đạo lý trị quốc của Nho giáo, kiến nghị bãi bỏ mọi
học thuyết, độc tôn Nho giáo. Hán Vũ Đế chấp nhận kiến nghị đó. Kết quả Nho
giáo được chính trị hóa và nâng cấp thành cương lĩnh trị quốc, công cụ văn hóa bảo vệ
chế độ phong kiến – Lưu Hiểu Ba coi đây là bi kịch lớn nhất của nền văn minh
Trung Quốc.
Đời Tống, Trình Di, Trình Hạo, Chu Hi tiếp
thu các học thuyết khác, xây dựng nên hệ thống Lý Học Nho gia. Chu Hi (1130-1200) làm chú giải cho 4
bộ sách Đại học, Luận ngữ, Mạnh Tử, Trung dung, nhờ thế bộ Tứ thư (4 kinh điển Nho giáo) này trở
thành sách giáo khoa các thí sinh dự thi khoa cử buộc phải học. Luận Ngữ chép
lời Khổng Tử được coi là kinh thánh của Nho giáo. Tể tướng Triệu Phổ đời Bắc
Tống từng nói “Chỉ dùng nửa bộ Luận Ngữ là có thể trị được cả thiên hạ”.
Từ đó Nho giáo trở thành
hệ tư tưởng thống trị xã hội Trung Quốc và ảnh hưởng lớn tới Việt Nam, Bán đảo
Triều Tiên, Nhật Bản.
Sau khi tiếp xúc phương
Tây, giới trí thức Trung Quốc hiểu ra Nho giáo là trở ngại chủ yếu kìm hãm sự
phát triển của Trung Quốc, khiến cho Trung Quốc yếu hèn lạc hậu và bị phương
Tây bắt nạt. Từ phong trào Ngũ Tứ (1921) học thuyết Khổng Tử bị chửi bới, vùi
dập, đến phong trào “Phê Lâm phê Khổng” do Mao Trạch Đông phát động (1974) thì
hầu như bị xóa bỏ.
Giới học giả quốc tế
không đánh giá cao đức Khổng. Hegel nhận xét Trung Quốc không có triết học, lời
Khổng Tử trong Luận Ngữ chỉ là những đạo lý thường thức không có gì mới. Năm
1927, Nguyễn Ái Quốc viết: Nếu Khổng Tử sống ở thời đại chúng ta mà không thay
đổi quan điểm thì ông sẽ trở thành phần tử phản cách mạng.
Sau cải cách mở cửa, Chính phủ TQ lặng
lẽ cho phép phục hồi dần Khổng Tử dưới cái tên nghiên cứu Quốc học, tức nghiên cứu phục hồi văn hóa truyền
thống Trung Quốc mà Nho giáo là cốt lõi. Từ đó Cơn sốt Khổng
Tử bắt đầu nóng
dần.
Năm 1988, Quỹ Khổng Tử
Trung Quốc và UNESCO tổ chức Hội thảo kỷ niệm 2540 năm sinh Khổng Tử, có đại
biểu 25 nước tới dự, không có đại diện chính quyền. Tháng 10/1994, nhân 2545
năm sinh Khổng Tử, Trung Quốc tổ chức lễ thành lập Hội Nho học quốc tế và Hội
thảo quốc tế về Khổng Tử. Lý Thụy Hoàn – Ủy viên thường vụ Bộ CT ĐCSTQ kiêm Chủ
tịch (CT) Hội nghị Hiệp thương chính trị Nhân dân Trung Quốc (Chính Hiệp) toàn
quốc đến dự và phát biểu. CT nước Giang Trạch Dân tiếp các đại biểu. Sau đó cứ
5 năm một lần Hội này lại tổ chức kỷ niệm Khổng Tử, lãnh đạo cao nhất tới dự
chỉ là CT Chính Hiệp.
Tại kỳ họp Quốc hội
Trung Quốc 3/2005, có đại biểu đề nghị phục hồi đạo đức nhân-nghĩa-lễ-trí-tín,
đưa Tứ thư Ngũ kinh vào chương trình trung-tiểu học và thi công chức. Từ
10/2006, bà Vu Đan thuyết trình nhiều buổi trên truyền hình về “Thu hoạch đọc
Luận ngữ”, “Thu hoạch đọc Trang Tử”, được dân hoan nghênh. Hai cuốn sách cùng
tên của bà in lần đầu 4 triệu bản bán hết ngay. Tháng 9/2008, Bộ Văn hóa Trung
Quốc và chính quyền tỉnh Sơn Đông lần đầu tổ chức Đại hội Nho học thế giới tại
Khúc Phụ quê Khổng Tử.
Cơn sốt Khổng
Tử từng bước tăng
nhiệt. Tuy vậy trên vấn đề đánh giá Nho giáo, giới học giả Trung Quốc vẫn chia
hai phái chống nhau: phái tự do và phái bảo thủ văn hóa, chủ yếu đả kích nhau
về lý luận. Điển hình là cuốn Chó không nhà – Tôi đọc Luận ngữ của Lý Linh (5/2007) – gáo nước
lạnh dội lên những cái đầu đang sốt Khổng Tử. Lý Linh chứng minh Khổng Tử không phải
là thánh nhân, ngài có cống hiến chính về mặt giáo dục và đạo đức; Đức Khổng
ngày nay ta biết chỉ là Khổng Tử “nhân tạo”, được tâng bốc tới mức không thể
giả tạo hơn. Năm 2010, Trung tướng Lưu Á Châu Chính ủy ĐH Quốc phòng Trung
Quốc nói Nho giáo có
tội với Trung Quốc.
Lưu Hiểu Ba nhận xét các lời dạy của đức Khổng chỉ là trí thông minh nhỏ, không
chứa đựng trí tuệ lớn.
Từ năm 2010, CT Hồ Cẩm Đào bắt đầu dè
dặt sử dụng một số lời Khổng Tử, như xã hội hài hòa, dĩ nhân vi bản... Tuy vậy đa số dân Trung Quốc chưa ủng
hộ phục hồi Khổng Tử. Điển hình là việc Viện Bảo tàng Quốc gia Trung Quốc dựng
pho tượng lớn đức Khổng bằng đồng đen trên quảng trường Thiên An Môn (1/2011)
bị dư luận phản đối tới mức hơn 3 tháng sau phải lặng lẽ cất tượng vào trong
Viện. Việc này chính quyền Trung Quốc không nói gì, điều đó cho thấy “cơn sốt
Khổng Tử” đang hạ nhiệt dần.
Gió đổi chiều
Sau Đại hội 18 ĐCSTQ (12/2012), tình
hình bắt đầu thay đổi. Tân Tổng Bí thư kiêm CT nước là Tập Cận Bình, một người
rất yêu và coi trọng văn hóa truyền thống Trung Quốc, hiểu biết Quốc học, khi
nói, viết thường vận dụng các từ ngữ cổ. Năm 2006 ông nói tinh thần cốt lõi của
Nho giáo là xã hội hài hòa.
Tháng 11/2013 CT Tập tọa
đàm với Viện Nghiên cứu Khổng Tử tại Khúc Phụ, quê hương Đức Khổng. Dịp lễ hội
Ngũ Tứ 2014, ông đến thăm nhà Quốc học lão thành Thang Nhất Giới tìm hiểu
việc biên soạn sách “Nho Tàng” (Tổng tập các trước tác Nho giáo).
Ngày 24/9/2014, ông đến dự và phát biểu
tại Hội thảo Nho học với nền hòa bình và sự phát triển thế
giới nhân kỷ niệm
2565 năm sinh Khổng Tử. Đây là lần đầu tiên lãnh đạo cao nhất Trung Quốc dự
hoạt động trên. Sự kiện chưa từng có này cho thấy CT Tập là nhà lãnh đạo TQ
quan tâm nhất việc phục hồi Khổng Tử.
CT Tập nói: Cần kế thừa nền văn
hóa truyền thống của dân tộc, không được phủ nhận lịch sử, không quên lịch sử
thì mới có thể mở ra tương lai, giỏi kế thừa thì mới giỏi sáng tạo, chỉ có kiên
trì đi từ lịch sử tới tương lai thì mới có thể làm tốt sự nghiệp ngày nay. Ông
nhấn mạnh: Tư tưởng triết học phong phú, tinh thần nhân văn, tư tưởng giáo hóa,
ý tưởng đạo đức của Văn hóa truyền thống ưu tú Trung Quốc có thể có gợi ý hữu
ích cho việc trị quốc. Nho giáo là bộ phận quan trọng của văn hóa truyền thống
Trung Quốc, có sức sống lâu dài. Một số người hiểu biết trên thế giới cho rằng
văn hóa truyền thống ưu tú của Trung Quốc chứa đựng các gợi ý quan trọng giúp
giải quyết những khó khăn của loài người hiện đại. Như các tư tưởng Đạo pháp tự
nhiên, thiên nhân hợp nhất, thiên hạ vi công, thế giới đại đồng, dĩ dân vi bản,
an dân phú dân lạc dân, Vi chính dĩ
đức, Chính giả chính dã, Nhân giả ái nhân, Dĩ đức lập nhân, … Liêm khiết tòng
chính, Cần mẫn phụng công,…
Cần kết hợp điều kiện thời đại để kế thừa và phát huy các tư tưởng đó. Phải
kiên trì Cổ vi kim dụng, Dĩ cổ giám kim, phát huy nhân tố tích cực, vứt bỏ nhân tố tiêu cực,
không trọng xưa nhẹ nay, phải cố gắng chuyển hóa sáng tạo văn hóa truyền thống.
Ông nói, nghiên cứu
Khổng Tử và Nho giáo là để hiểu đặc tính dân tộc của người Trung Quốc. Nên ứng
xử một cách khoa học với văn hóa truyền thống, với văn hóa các nước khác, người
cầm quyền cần hấp thu sức mạnh truyền thống, việc quản trị quốc gia cần có sự
nâng đỡ của văn hóa.
Ngày 9/9/2014 khi đến
thăm ĐH Sư phạm Bắc Kinh, nghe báo cáo nói ba môn ngữ văn, lịch sử và chính trị
tư tưởng đã tích hợp làm một môn, ông phát biểu rất không tán thành việc sách
giáo khoa loại bỏ các môn tản văn và thi từ kinh điển cổ đại, ông nói như thế
là “xóa nhân tố Trung Quốc”, là việc rất đáng buồn
Vì sao Tập Cận Bình cần Khổng Tử
Tập Cận Bình lên cầm quyền với lời hứa
sẽ thực hiện Giấc mơ Trung Quốc, tức sự phục hưng vĩ đại dân tộc Trung Hoa, mục tiêu đến năm
2021 phải xây dựng xong xã hội khá giả có mức sống cao gấp đôi năm 2010. Muốn
thế phải tiến hành cải cách sâu rộng tất cả mọi lĩnh vực. Nhưng cải cách gặp
nhiều trở lực, vì nó động chạm tới quyền lợi của nhiều cán bộ đương chức và các
nhóm lợi ích, các phái đối lập. Bất đồng và phản kháng tăng lên, đe dọa sự ổn
định của chính quyền Tập Cận Bình. Ông cần tìm cách đoàn kết dân chúng lại,
nhưng chủ nghĩa cộng sản không còn sức hút với người Trung Quốc hiện nay nữa,
thứ duy nhất có thể gắn kết họ là nền văn hóa truyền thống. Vì thế ông cần khôi
phục văn hóa truyền thống, thực chất là khôi phục Nho giáo.
Nho giáo dạy người ta tuân theo quy tắc
đạo đức Tam cương Ngũ thường. Tam cương là trật tự của ba mối quan hệ xã hội: vua-tôi, cha-con,
chồng-vợ, yêu cầu bề tôi phải tuyệt đối phục tùng vua, con tuyệt đối phục tùng
cha, vợ tuyệt đối phục tùng chồng. Ngũ thường là 5 phép ứng xử Nhân, Nghĩa,
Lễ, Trí, Tín, trong đó
Nhân và Lễ được coi là cốt lõi. Theo giải thích, chữ Nhân仁gồm “nhân”(亻, người) ghép với “nhị”(二, hai), có nghĩa là quan tâm mọi người
hơn quan tâm bản thân, tức đề cao chủ nghĩa tập thể, đả phá chủ nghĩa cá nhân
(ngược với giai cấp tư sản). Lễ là nói phép giao tiếp, chủ yếu giao tiếp
với người trên, tức quy củ trật tự trên dưới, phải nghe theo người trên.
Thực tế cho thấy Tam cương Ngũ
thường của Nho
giáo tạo ra một xã hội toàn những người chỉ biết làm nô lệ, mù quáng vâng lời
tầng lớp cai trị, không dám đấu tranh bảo vệ quyền lợi của mình. Nhờ vậy Nho
giáo đã đem lại sự ổn định cho xã hội phong kiến, giúp tầng lớp thống trị tha
hồ áp bức bóc lột nhân dân, vì thế xưa nay các chế độ độc tài chuyên chế ở
Trung Quốc đều tin dùng Nho giáo. Lý Linh nói: Một khi được nhà cầm quyền tin
dùng thì Khổng Tử từ thân phận con chó lang thang sẽ trở thành con chó gác cửa
cho kẻ cầm quyền.
Người Trung Quốc luôn tôn trọng kinh
nghiệm của tiền nhân, tức những cái thuộc về truyền thống, coi là chỗ dựa tốt nhất để tránh mọi rối
loạn xã hội, nhất là truyền thống trung hiếu. Trung thành với cấp trên, giữ trật tự
trên dưới là điều kiện tiên quyết cho xã hội ổn định. Trung quân, hiện nay là trung với ĐCSTQ, được coi
là ái quốc; ngược lại là phản quốc.
Sau mấy chục năm cải
cách mở cửa, người Trung Quốc đã tiếp nhận không ít quan niệm giá trị của
phương Tây như dân chủ, tự do, bình đẳng, nhân quyền, ngày càng mạnh dạn đấu
tranh chống bất công xã hội, chống mọi vi phạm nhân quyền và dân chủ tự do.
Internet tạo điều kiện để họ công khai tố cáo, phê phán các sai trái của chính
quyền. Nhưng chính quyền lại cho rằng điều đó làm giảm uy tín của ĐCSTQ, ảnh
hưởng tới vai trò lãnh đạo của Đảng, gây mất ổn định xã hội, vì thế cần tìm mọi
cách hạn chế tiếng nói của người dân. Ngoài các biện pháp trấn áp và cấm đoán
hành chính (như cấm các blog “lề trái”), CT Tập thấy cần sử dụng Nho giáo – học
thuyết từng giữ cho xã hội Trung Quốc ổn định mấy nghìn năm – để giáo dục dân
chúng tuyệt đối phục tùng sự lãnh đạo của ĐCSTQ, vì thế ông kiên quyết phục hồi
Khổng Tử. Thực ra xã hội bất ổn là do phân hóa giàu nghèo ngày càng gay gắt,
đạo đức xã hội liên tục suy thoái, nạn tham nhũng tràn lan làm nảy sinh nhiều
mâu thuẫn mới.
Phản ứng của dư luận
Người Trung Quốc có truyền thống “sùng
thánh”, bởi vậy khi CT Tập muốn phục hồi Khổng Tử thì truyền thông chính thống
cả nước liền nhiệt liệt hưởng ứng. Cơn sốt Khổng Tử nóng trở lại. Cán bộ Đảng và chính quyền
thi nhau phát biểu ý kiến giải thích và chứng minh quan điểm của CT Tập là hợp
lý nhất. Các đài truyền hình làm chương trình Giảng đường
trăm nhà để các
học giả giảng giải đạo Khổng. Bà Vu Đan (tháng 11/2012 bị sinh viên ĐH Bắc Kinh
la hét phải rời diễn đàn) ngày 8/12/2015 lại ra mắt công chúng để quảng bá
Khổng Tử. Chính phủ bỏ tiền tỷ đẩy mạnh xây dựng các Học viện Khổng Tử trên
toàn cầu…
Giới học giả hăng hái nói về các ưu điểm
của Nho giáo. Dương Triều Minh, Giám đốc Viện Nghiên cứu Khổng Tử, nói: 2000
năm qua trên thế giới chưa ai được quan tâm và bị đánh giá mâu thuẫn nhiều như
Khổng Tử. Thời cận đại, người Trung Quốc cho rằng muốn thoát khổ thì phải vứt
bỏ văn hóa truyền thống với hạt nhân là Nho giáo. Mới đây, sau 30 năm nghiên
cứu, giới học giả Trung Quốc phát hiện Nho giáo ban đầu (thời Tiên Tần) có “sắc
thái tính đạo đức” rõ rệt, còn Nho giáo sau đời Hán thì có “sắc thái quyền uy”
rõ rệt. Nho giáo ban đầu với đại diện là Khổng Tử nhấn mạnh “chính danh”, chủ
trương “Tu dĩ an nhân” và “nhân chính”, “đức trị” – là các giá trị quan cốt lõi
của Khổng Tử thật. Nho giáo sau đời Hán thì thích ứng nhu cầu chế độ chuyên chế
phong kiến, phiến diện nhấn mạnh quân quyền, phụ quyền, phu quyền. Nho giáo suy
thoái dần, có đặc điểm “thiếu ý thức bình đẳng và ý tưởng tự do”, không
thích hợp với xã hội hiện đại. Đó là giá trị quan của Khổng Tử giả. Nay mọi người nên nhận thức được tinh
thần chân chính của Nho giáo nguyên thủy, nên phục hồi các giá trị quan
của Khổng Tử thật.
GS Vương Kiệt ở Trường
Đảng Trung ương nhấn mạnh: kể từ phong trào Dương Vụ đời Thanh, cách mạng tư
sản của Tôn Trung Sơn cho tới việc ĐCSTQ thời kỳ đầu đi theo chủ nghĩa Mác,
Trung Quốc đã du nhập không ít học thuyết của phương Tây nhưng thực tế chứng
minh đều không thành công. ĐCSTQ dần dần nhận ra giá trị to lớn của văn hóa
truyền thống Trung Quốc, hiểu rằng chỉ có kiên trì chủ nghĩa Mác, kế thừa có
phê phán nền văn hóa truyền thống Trung Quốc, kiên trì nguyên tắc “cổ vi kim
dụng”, “dương vi trung dụng” thì mới có thể vứt bỏ cái vỏ bọc cũ rích của
truyền thống Trung Quốc, kế thừa nội hàm tinh thần và linh hồn sống động của
văn hóa truyền thống ưu tú, qua đó thực hiện sự phục hưng vĩ đại dân tộc Trung
Hoa. CT Tập đã tổng kết sơ bộ tác dụng của việc kế thừa Văn hóa truyền thống ưu
tú của Trung Quốc đối với sự phục hưng đó, thống nhất được hai mặt phát triển
cá nhân và quốc gia giàu mạnh. Sức mạnh cứng rất quan trọng, nhưng sức mạnh
mềm, như văn hóa, đạo đức, tín ngưỡng, tinh thần, giá trị quan… cũng rất quan
trọng.
GS Diêu Trung Thu nói: Việc kỷ niệm
Khổng Tử với sự có mặt của lãnh đạo tối cao cho thấy Trung Quốc phải dựa vào tư
tưởng Khổng Tử để đạt được sự đồng thuận. Tư tưởng này không giải quyết được
mọi vấn đề nhưng có lợi cho việc giải quyết vấn đề cơ bản nhất là lòng người,
là giá trị quan của quốc dân, là cơ sở tinh thần của đất nước. Ở tầng nấc đời
sống cá nhân, Khổng Tử đề xuất phải “tu thân”, ở tầng nấc quản trị nhà nước,
Khổng Tử đề xuất phải “Chính giả chính dã政者正也” (người làm chính trị phải chính trực
công bằng), rất coi trọng xã hội tự trị. Ý tưởng Giấc mơ Trung
Quốc thể hiện hình
ảnh của tư tưởng Nho giáo. Hội nghị TƯ 3 khóa 18 ĐCSTQ nêu ra “đẩy mạnh hiện
đại hóa hệ thống trị lý nhà nước và năng lực trị lý”, trong đó trị lý (cai trị, quản lý) là một khái
niệm kiểu Nho giáo. Nho giáo coi trọng việc đào tạo người lãnh đạo xã hội, tức
đào tạo sĩ quân tử 士君子.
Sử gia Chương Lập Phàm
cho rằng phục hưng Nho giáo bắt nguồn từ một vấn đề vô cùng quan trọng là xã
hội Trung Quốc hiện nay chịu ảnh hưởng nặng của tư tưởng chủ nghĩa vật chất,
cần phải lấp đầy khoảng trống về ý thức hệ.
Triết gia Lê Minh nói toàn bộ văn nhân
Khổng-Nho đều là lũ ngốc; sau hơn 2000 năm ngụp đầu trong cái hũ tương văn hóa
Khổng-Nho người Trung Quốc đã đánh mất toàn bộ cái “tôi”, vì thế không thể xây
dựng được triết học của Trung Quốc; tội ác hơn 2000 năm qua đều tập trung ở một
chữ Lễ, tức
chế độ mọi người mãi mãi không bình đẳng (Lễ chế).
Nhà Trung Quốc học người
Đức Michael Schuman nói ĐCSTQ cần tới sự ủng hộ của Nho giáo, nhưng đề cao Nho
giáo cũng có rủi ro, vì Khổng Tử bảo vệ chế độ đẳng cấp xã hội, chủ trương xã
hội hài hòa và phản đối nổi loạn nhưng cũng yêu cầu chính quyền phải công bằng
chính trực, minh bạch, suốt đời Khổng Tử phê phán quyền lực.
Báo Le Figaro (Pháp) phân tích: với việc khôi
phục Khổng Tử, Nho giáo sẽ trở thành một công cụ hữu ích để Tập Cận Bình kiểm
soát chặt xã hội và bóp nghẹt nguyện vọng dân chủ. Nhưng có thể lợi bất
cập hại: chưa chắc sẽ làm nhụt được nguyện vọng dân chủ của dân mà ngược lại CT
Tập có thể sẽ lấy làm tiếc là đã khôi phục đức Khổng, nếu người dân đòi hỏi
ĐCSTQ phải trung thực và làm gương như Khổng Tử đã dạy.
Roderick MacFarquhar, GS
ĐH Harvard và là nhà Trung Quốc học nổi tiếng nhận xét: Từ thời Mao đến nay,
chưa một lãnh đạo Trung Quốc nào đẩy mạnh một chương trình trọn vẹn phục hồi
các giá trị cũ và sức mạnh thô bạo của ĐCSTQ như Tập Cận Bình đang làm.
Rõ ràng việc CT Tập cố
phục hồi Nho giáo dưới chiêu bài phục hồi Văn hóa truyền thống cho thấy ông
đang muốn sử dụng Nho giáo để siết chặt quyền lực của mình, trấn áp mọi sự phản
kháng từ những người đòi dân chủ, các phái đối lập, làn sóng phản kháng này
đang dâng lên.
Đầu năm 2016, Trung Quốc ra luật mới về
xuất bản. Sau đó blog của Nhiệm Chí Cường, một tiếng nói đòi dân chủ được gọi
là Nhiệm đại pháo, bị cấm. Mới đây La Vũ, con của cố Đại tướng La Thụy Khanh viết
thư cho bạn cũ là Tập Cận Bình, yêu cầu chấm dứt chế độ độc tài, chuyển Trung
Quốc thành quốc gia dân chủ. Trước đó La Vũ còn công khai đòi giải tán ĐCSTQ.
Vài nhận xét bước đầu
Có thể thấy chiến dịch
phục hồi Khổng Tử của CT Tập chưa đạt hiệu quả mong muốn. Tuy bộ máy Đảng và
chính quyền ra sức hưởng ứng nhưng dân vẫn thờ ơ. Nguyên nhân sâu xa là do họ
đã quá chán ngán với học thuyết của Khổng Tử và văn hóa truyền thống Trung
Quốc. Dù có được tô son điểm phấn thế nào, Nho giáo vẫn bị coi là hệ tư tưởng
của chế độ phong kiến độc tài chuyên chế và việc CT Tập viện đến Nho giáo để
củng cố sự lãnh đạo của ĐCSTQ chỉ có thể gây phản cảm. Dư luận nước ngoài cho
rằng việc lợi dụng chiến dịch chống tham nhũng để thanh trừng một loạt cán bộ
tay chân của lãnh đạo tiền nhiệm đã làm tê liệt bộ máy ĐCSTQ, chiến dịch đàn áp
làn sóng đòi dân chủ đã làm tăng sự bất đồng trong Đảng.
Trung Quốc hiện đã lớn mạnh nhiều về
kinh tế, khoa học kỹ thuật, quân sự, sức mạnh cứng rất lớn, nhưng sức mạnh mềm
thì vẫn còn quá yếu. Hơn 100 năm nay Khổng Tử bị chính người Trung Quốc vùi dập
tới mức khó có thể sống lại. Văn hóa truyền thống Trung Quốc chẳng có gì để quá
tự hào. Mao Trạch Đông nhận định văn hóa truyền thống Trung Quốc có tính chất
phong kiến và phản động, cần loại bỏ. Suốt mấy chục năm qua, giới học giả Trung
Quốc vẫn chưa phản bác được nhận định của bà Thatcher “100 năm nữa người Trung
Quốc cũng không có tư tưởng mới nào”. Một nhà văn Trung Quốc nhận xét câu
này điểm trúng huyệt
của Trung Quốc,
một triết gia Trung Quốc cảm ơn bà Thatcher đã nói như vậy. Lưu Á Châu nói
Trung Quốc chưa hề có nhà tư tưởng. Cũng thế, giới nhà văn Trung Quốc chưa phản
bác được ý kiến “Văn học đương đại Trung Quốc là rác rưởi” do một nhà Hán học
người Đức nêu ra năm 2006.
Năm 2013, nhà văn nổi tiếng Trương Hiền
Lượng nói hiện nay người Trung Quốc thiếu nơi quy y (ý nói thiếu niềm tin): chủ nghĩa
cộng sản chỉ là lý tưởng chứ không phải là niềm tin; Trung Quốc cần xây
dựng tín ngưỡng và giá trị quan của mình, nếu không thì chẳng thể trở thành
nước lớn, điều mà CT Tập mong ước hơn ai hết.
Xã hội Trung Quốc đang
khủng hoảng đức tin, đời sống tinh thần và tâm linh trống rỗng, cần chấn chỉnh.
Nhưng dựng dậy cái thây ma Khổng Tử sẽ chẳng giúp gì cho việc ấy, ngược lại có
lẽ Tập Cận Bình sẽ chỉ càng ngày càng lúng túng hơn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét