Thứ Năm, 16 tháng 4, 2020

MỘT GIẢ THUYẾT VỀ NHÀ NƯỚC VĂN LANG


Hà Văn Thùy

         Tượng vua Hùng ở một điểm du lịch vân hóa tâm linh tại Kỳ Sơn (Hòa Bình)- Ảnh:TSH

   Trong khi tìm lại cội nguồn, với chúng tôi, vấn đề khó khăn nhất, bí ẩn nhất là nhà nước Văn Lang. Thư tịch Trung Hoa, kho tàng vô giá giúp ta tìm lại quá khứ không ghi chép dù chỉ một lần. Chúng ta chỉ gặp ở truyền thuyết rồi từ truyền thuyết được ghi thành văn bản muộn mằn về sau trong các sách đậm màu huyền thoại Lĩnh Nam chích quái, Việt điện u linh… Đã có thời theo chủ thuyết duy vật lịch sử, chúng ta không tin vào truyền thuyết. Nhưng rồi sự thật cho thấy, có những việc của truyền thuyết lại thật hơn nhiều trang sử. Truyền thuyết nói với ta rằng, “Hùng Vương lên ngôi, đặt tên nước là Văn Lang…” Ta hiểu đó là nhà nước xuất hiện trước khi dân tộc bước vảo thời có sử. Để chứng minh Văn Lang có thật, các nhà chép sử Việt Nam hiện đại đã dựa vào sách Đại Việt sử lược của tác giả khuyết danh, dựng lên nhà nước Văn Lang được thành lập 700 năm TCN tại đồng bằng Bắc Bộ. Một Văn Lang như thế đã vào chính sử, hiện lên sách giáo khoa và trong tin tưởng của nhiều thế hệ người Việt. Nhưng rồi khi tình cờ khảo sát địa chất thủy văn đồng bằng sông Hồng, tôi bỗng phát hiện chuyện động trời: 700 năm TCN, đồng bằng sông Hồng còn chìm trong nước biển của vịnh Hà Nội. Chỉ tới 300 năm TCN, khi nước biển rút, phần quan trọng nhất của đồng bằng mới hiện ra để người dân tới khai thác. Những địa danh như Văn Lang, Giao Chỉ…  mới hình thành từ đầu Công nguyên. Làm sao mà có một nhà nước ở nơi như vậy? Nhưng truyền thuyết, tâm linh dân tộc luôn hướng về nhà nước buổi bình minh ấy. 

Tôi xin đưa ra một giả thuyết về nhà nước Văn Lang.

40.000 năm trước, đang trong Kỷ Băng Hà, nhưng lúc này khí hậu ấm lên đáng kể, phía Bắc bớt lạnh. Người từ Việt Nam đi lên Quảng Đông. Tiếp tục săn bắn hái lượm trên băng giá nhưng người Việt cũng trồng nhiều loại rau, củ, quả theo phương thức bán thuần hóa. Nhờ đó nguồn thức ăn được cung cấp nhiều thêm, đời sống được cải thiện và nhân số gia tăng. Người Việt lan tỏa ra khắp Hoa lục. Khoảng 20.000 năm trước, tại Tiên Nhân Động tỉnh Giang Tây, người Việt chế ra đồ gốm đầu tiên, bước vào giai đoạn ăn chín uống sôi. Trong số thực vật hoang dại được dùng làm thức ăn, ngày càng nhiều thêm hạt của loài lúa hoang Oryza vivara. Cùng với thu hoạch hạt lúa tự nhiên, con người tiến hành thuần hóa lúa. 12.400 năm trước, cũng tại đây, cây lúa trồng Oryza sativa ra đời. Có được cây lúa trồng với năng suất cao và chất lượng tốt hơn là bước tiến quan trọng của canh tác nông nghiệp. Cùng với cây kê và giống gà, giống chó được thuần hóa từ trước, người Việt đưa nông nghiệp lên lưu vực Dương Tử và Hoàng Hà. 9000 năm trước văn hóa nông nghiệp Giả Hồ Hà Nam được xây dựng. Cùng với dụng cụ đá mài bóng tinh xảo, người Việt chế tác đồ gốm đen trình độ nghệ thuật cao, mỏng như vỏ trứng. Lượng lúa dư thừa, người Việt đã nấu rượu gạo sau đó ngâm với táo gai và mật ong thành rượu vang. Nghề nuôi tằm xuất hiện. Khai quật ngôi mộ 8500 năm trước, các nhà khảo cổ tìm được protein tơ tằm cho thấy lụa được dùng cho may mặc. Phát hiện những chiếc sáo bốn lỗ, sáu lỗ và tám lỗ, có chiếc đến nay còn thổi được, cho thấy hoạt động âm nhạc của người xưa. Cũng lần đầu tiên tại đây tìm thấy những chữ tượng hình như chữ Nhật, chữ Mục, chữ Bát, số 20… khắc trên xương thú hay yếm rùa. Văn hóa Giả Hồ là văn hóa tiêu biểu sớm nhất của người Việt. 7000 năm trước xuất hiện di chỉ văn hóa nông nghiệp lớn Hà Mẫu Độ vùng cửa sông Dương Tử tỉnh Chiết Giang. Cũng 7000 năm trước ra đời văn hóa nông nghiệp trồng kê Ngưỡng Thiều ở miền Trung Hoàng Hà. Đây là di chỉ văn hóa lớn, đồ đá, đồ gốm tinh xảo. Ở phía Nam và Đông trồng lúa, phía Tây Bắc do khí hậu khô của vùng bán sa mạc nên kê là cây trồng chủ lực với những nhà kho chứa hạt kê trong những chum vại lớn. Đặc biệt tại di chỉ Bán Pha (Bonfo) tỉnh Sơn Tây, tìm thấy nghĩa trang với di cốt người Mongoloid phương Nam (South Mongoloid) rất gần với người Trung Quốc hiện đại. Các nhà khoa học cho rằng đây chính là tổ tiên của người Hán.

Một câu hỏi: người ngưỡng Thiều từ đâu ra? Học giả Zhou Jixu(1), sau khi khảo cứu dân cư gần gũi quanh vùng, cho rằng đó chỉ có thể là người từ phương Nam lên. Nhưng trong sách Nhân chủng học Đông Nam Á, nhà nhân học hàng đầu của Việt Nam khẳng định: suốt trong thời kỳ đồ đá, Nam Trung Quốc và Đông Nam Á chỉ duy nhất chủng Australoid mà không có người Mongoloid. Do vậy không thể có người Mongoloid từ phương Nam lên. Từ khảo cứu của mình, tôi nhận định: người Mongoloid phương Nam Ngưỡng Thiều là sản phẩm lai giữa người Việt chủng Australoid sống ở bờ Nam và người Mông Cổ phương Bắc (North Mongoloid) sống trên bờ Bắc Hoàng Hà. Do người mẹ Việt sinh ra tại Nam Hoàng Hà, bú sữa mẹ Việt, nói tiếng Việt và sống trong văn hóa Việt, người Mongoloid phương Nam là người Việt, sau này được nhân học đặt tên là người Việt hiện đại. Người Việt trên lưu vực Hoàng Hà nhanh chóng chuyển sang chủng Mongoloid phương Nam.

Thời kỳ này người Việt đã trưởng thành về văn hóa: chế tác đồ đá, đồ gốm tinh xảo, nông nghiệp trình độ cao. Khai quật khu mộ 6500 năm trước tại dốc Tây Thủy trấn Bộc Dương Hà Nam mà nhiều khả năng là mộ Phục Hy, cho thấy những dấu hiệu trưởng thành của dịch lý. Dựa theo truyền thuyết, ta có thể tin, vị tổ đầu tiên của tộc Việt ra đời cùng với tổ mẫu Nữ Oa.

Trong những văn hóa khảo cổ trên đất Trung Quốc, văn hóa Lương Chử có ý nghĩa đặc biệt. Đây là vùng đất thấp cửa sông Dương Tử, rất thuận lợi cho việc đánh cá, chăn nuôi gia súc và trồng lúa nên nhiều nhân tài vật lực khắp nơi dồn về, trở thành trung tâm kinh tế văn hóa phát triển cao nhất của phương Đông thời cổ.

Khoảng 3300 năm TCN, nơi đây trở thành kinh đô của nhà nước rộng lớn: phía Bắc giáp sông Dương Tử,  phía Đông giáp biển Đông, phía Tây giáp Ba Thục, phía Nam vươn đến miền Trung Việt Nam. Nhà nước này do Thần Nông, vị vua thần và cũng là tổ của người Việt xây dựng. Theo truyền thuyết, Đế Minh là cháu của Thần Nông truyền ngôi cho Đế Nghi. Đế Nghi sinh ra hai con là Đế Lai và Lộc Tục. Đế Nghi cho con cả là Đế Lai cai quản vùng đất thuộc lưu vực Hoàng Hà, từ Sơn Đông đến Thiểm Tây. Năm 2879 TCN Lộc Tục cai quản giang sơn phía Nam, lấy hiệu là Kinh Dương Vương, đặt tên nước là Xích Quỷ. Thời gian này lục địa Đông Á có ba trung tâm kinh tế văn hóa là vương quốc của Đế Lai ở lưu vực Hoàng Hà, nhà nước của Kinh Dương Vương thuộc lưu vực Dương Tử và nhà nước của Tàm Tùng ở vùng Ba Thục.

Năm 2698 TCN, người Mông Cổ do Hiên Viên dẫn đầu đánh vào Trác Lộc, chiếm miền Trung Hoàng Hà của người Việt, lập nhà nước Hoàng Đế. Đế Du Võng (con Đế Lai) tử trận, nhà nước của Đế Lai tan rã. Một phần bị Hoàng đế chiếm, phần còn lại chia thành các tiểu quốc hay bộ tộc tiếp tục kháng chiến lâu dài. Do chiến tranh một bộ phận người Việt di cư xuống Nam Dương Tử. Thời gian này, lo củng cố và mở rộng lãnh thổ chiếm được trên lưu vực Hoàng Hà nên Hoàng Đế chưa dám ngòm ngó phương Nam. Nhà nước Xích Quỷ chi viện cho đồng bào phía Bắc kháng chiến. Kinh Dương Vương truyền ngôi cho Lạc Long Quân. Lạc Long Quân truyền ngôi cho Hùng Vương. Hùng Vương đổi quốc hiệu thành Văn Lang. Năm 2300 TCN do nước biển dâng, kinh đô Lương Chử và phần đất phía biển bị nhấn chìm. Hùng Vương dời đô về phía hồ Động Đình.

 Lúc này nhà nước phía Bắc chuyển sang thời Đào Đường dưới sự cai trị của Đế Nghiêu. Qua năm đời vua từ Hoàng Đế, Chuyên Húc, Thiếu Hạo, Đế Khốc đến Đế Nghiêu, phía Bắc theo phong tục Mông Cổ đã khác phía Nam. Người phía Bắc xem dân phía Nam là ngoại nhân, ngoại tộc, là Nam Man với ý coi thường. Thấy dân phía Nam mặc váy nên gọi là người Việt Thường (越裳)hay Việt Thường thị người Việt mặc váy mà không cần biết tên nước Văn Lang. Thời Đế Nghiêu, Văn Lang cử sứ giả thăm Đào Đường và biếu rùa thần. Việc này được ghi trong sử nhưng do quen với danh xưng Việt Thường nên sách ghi Việt Thường thị mà không ghi quốc danh Vặn Lang. Sách Thông chí của Trịnh Tiều thời Tống (1127-1279) viết: “Đời Đào Đường, phương Nam có Việt Thường thị qua hai lần sứ dịch sang chầu, dâng con rùa thần; có lẽ nó được đến nghìn năm, mình nó hơn ba thước, trên lưng có văn Khoa đẩu ghi việc từ khi trời đất mới mở mang trở về sau. Vua Nghiêu sai chép lấy, gọi là quy lịch.” Cuốn Thượng Thư đại truyện được viết đầu thời Hán chép: “Năm Tân Mão đời Chu Thành Vương (1063 – 1026 TCN) có Việt Thường thị phía nam Giao Chỉ đến kinh đô nhà Chu giao hảo, tặng chim bạch Trĩ.”

Đó là hai đoạn văn hiếm hoi xác nhận là có họ (hay tộc) Việt Thường xuất hiện từ thời vua Nghiêu (2300 năm TCN) tới thời Chu (1063 năm TCN). Hậu Hán thư cho biết: “Sau khi triều Chu suy yếu, nước Việt Thường đã dần dần đoạn tuyệt việc qua lại,” ta hiểu vì sao Việt Thường không còn được ghi trong sách sử. Công việc bây giờ là phải giải mã những thông tin này.

Để hiểu được Việt Thường Thị thì trước hết phải xác định được vị trí của nhà nước này. Dựa theo sách Thượng thư đại truyện: “Ở phía Nam Giao có nước Việt Thường,” sách Cựu Ðường thư thời Hậu Tấn (thế kỷ thứ X) cho rằng Việt Thường là ở miền quận Cửu Ðức, tức là từ Hà Tĩnh, Quảng Bình trở vào. Sách Văn hiến thông khảo thời Nguyên (thế kỷ thứ XIV) lại chú rõ thêm rằng nước Việt Thường xưa, tức là nước Lâm Ấp, sau là Chiêm Thành. Chính những sách này dẫn hậu thế lạc đường.

Thừa nhận việc Việt Thường thị cống rùa và chim trĩ cho triều đình Trung Quốc là có thể tin được nhưng chúng tôi cho rằng, Việt Thường thị không thể ở miền Trung Việt Nam vì những lẽ sau:

Các tài liệu nói tới địa danh Giao Chỉ thời Đào Đường (2300 năm TCN) rồi thời Chu (1063 năm TCN) cho thấy địa danh Giao Chỉ lúc đó đã có rồi. Trong khi địa danh Giao Chỉ ở Việt Nam chỉ xuất hiện vào đời Hán Vũ Đế, năm 111 TCN. Điều này cho thấy: Giao Chỉ thời Đào Đường và thời Chu hoàn toàn không phải là Giao Chỉ ở Việt Nam! Vì không có Giao Chỉ trên đất Việt thời Nghiêu, thời Chu nên cũng không thể có Việt Thường thị phía nam Giao Chỉ.

“Giao Chỉ nguyên nghĩa là một khái niệm nói về vùng đất phía nam vương quốc của Đường Nghiêu – Ngu Thuấn. Giao Chỉ đầu thời Chu chính là đất Sở (Hồ Bắc, Trung Quốc). Giao Chỉ cũng còn gọi là Cơ Chỉ hoặc Cơ Sở, nó hàm nghĩa luôn tên nước Sở thời Xuân Thu và Chiến Quốc. Giao Chỉ nửa cuối thời Chiến Quốc ở phía nam nước Sở. Giao Chỉ thời Tần là Tượng Quận, thời Tây Hán là Bắc Bộ Việt Nam. Chỉ đến thời Đông Hán, Giao Chỉ mới biến thành địa danh cố định và xác thực trên địa đồ, đóng khung bởi kiến thức thiên văn Tần – Hán.” (2)

Vậy là, ban đầu, Nam Giao chẳng phải địa danh cụ thể mà chỉ là “cái cột mốc di dộng” đánh dấu biên địa phương Nam của nhà nước Hoàng Đế, được chuyển dịch ngày càng xa theo đà bành trướng. Chỉ tới thời Đông Hán, khi không còn khả năng bành trướng nữa, “cột mốc”mới được đóng xuống Bắc Bộ Việt Nam thành địa danh cố định Giao Chỉ. Học giả thời Tấn, thời Nguyên sinh sau đẻ muộn, không thể tìm được Việt Thường, Giao Chỉ trên đất Tàu, mà cũng chẳng biết lai lịch cái tên Giao Chỉ, bèn đoán mò, viết đại rằng “Việt Thường là Lâm Ấp”! Phân tích trên xác nhận Việt Thường thị chỉ có ở Nam Dương Tử. Câu hỏi tại sao miền Trung Việt Nam vào thời Hán lại có huyện Việt Thường, có thể giải thích như sau. Sau khi Văn Lang bị diệt, dân cư văn Lang cũ di cư về Việt Nam, có những nhóm người đến miền Trung. Những người này lấy tên Việt Thường đặt cho nơi cư trú mới. Sau đó dân cư đông lên thành xã rồi thành huyện. Nhà Hán lấy tên đất Việt Thường làm tên huyện. Cũng do có huyện Việt Thường ở miền Trung mà nhiều người, trong đó có các học giả Trung Quốc cho rằng có Việt Thường thị ở miền Trung Việt Nam. Họ càng tin hơn vì có địa danh Giao Chỉ ở đồng bằng Bắc Bộ.

Từ đó ta có thể suy đoán (vâng, suy đoán) rằng, kế tục Xích Quỷ, nhà nước Văn Lang vẫn hiện diện ở phía Nam Dương Tử. Sau năm 2300 TCN, kinh Đô Lương Chử bị chìm, Vua Hùng dời đô từ Lương Chử về di chỉ Thành Đầu Sơn vùng Hồ Động Đình. Sở dĩ chúng tôi có ý tưởng này vì trong truyền thuyết Lạc Long Quân-Âu Cơ có nhắc tới Cánh Đồng Tương, sông Tiền Đường, hồ Động Đình (Gió Động Đình mẹ ru con ngủ/ Trăng Tiền Đường thức đủ năm canh/ Bổng bồng bông, bổng bồng bông/ Võng điều mẹ ẵm con rồng cháu tiên.) Thành Đầu Sơn là di chỉ khảo cổ lớn, có thành quách, nhà cửa và di vật thuộc văn hóa Lương Chử. Có thể các vua Hùng đóng đô ở đây khoảng hơn 1200 năm từ thời vua Nghiêu (2300 TCN) đến Thành Vương nhà Chu (1063 TCN) và sau nữa. Khảo cổ học cho thấy, khoảng năm 2100 TCN, nước biển rút, vùng Lương Chử khô ráo trở lại, dân các nơi kéo về sinh cơ lập nghiệp. Theo sử thì vào thời gian này, ông Thiếu Khang hậu duệ của vua Vũ tới đây, cắt tóc vẽ mình theo tục người Việt, sống chan hòa với dân Việt, được tôn làm thủ lĩnh, lập ra tiểu quốc Việt. Vì ở xa Trung Nguyên, lại nhỏ bé nên không có tiếng tăm gì. Vào thời Câu Tiễn nước Việt mạnh lên, đánh thắng nước Ngô, làm bá chủ Trung Nguyên, tranh chấp ngày càng tăng với Văn Lang của Vua Hùng. Tiếp đó, nước Sở mạnh lên, uy hiếp không chỉ nước Việt mà cả Văn Lang. Trước tình thế nguy cấp, vua Hùng đưa triều đình lên thuyền từ vùng Hồ Động Đình ra biển xuống phương Nam, tới Rào Rum-Ngàn Hống Nghệ An dựng đô. Sau đó dời lên Vùng Hạc Trắng Việt Trì theo như ghi trong Ngọc phả Hùng Vương. Tại đây, vua Hùng tiếp tục lãnh đạo nước Văn Lang gồm Việt Nam và Quảng Đông, Quảng Tây ngày nay. Rồi nước Sở diệt nước Việt, thôn tính cả đất của Văn Lang vùng Nam Lĩnh. Tiếp đó là cuộc xâm lăng của Tần Thủy Hoàng. Vua Hùng lãnh đạo dân Lạc Việt liên kết với Thục Phán đánh quân Tần. Sau chiến thắng, Thục Phán chiếm ngôi của Hùng Duệ vương, lập nước Âu Lạc rồi dời đô về Cổ Loa. Là người gốc Việt thuộc bộ tộc Tần, tổ tiên di cư lên Trung Nguyên lập nước Triệu. Khi Triệu bị Tần diệt, ở tuổi 20, Triệu Đà bị xung lính xuống đánh Nam Lĩnh, làm huyện lệnh Long Xuyên. Trên đất Văn Lang cũ ở Nam Lĩnh, Triệu Đà nhân nhà Tần sụp đổ, lập nước Nam Việt rồi sáp nhập Âu Lạc vào Nam Việt. Cai trị Nam Việt, Triệu Đà vẫn theo tục cũ của người Việt nên được dân ủng hộ. Gần trăm năm Nam Việt đã củng cố quan hệ quốc gia vốn có từ lâu của dân cư Văn Lang dưới thời các vua Hùng. Khi bị người Hán xâm lăng, dân Văn Lang vẫn hướng về vua Hùng.

Năm 39 Hai Bà Trưng nhờ là hậu duệ của vua Hùng, nên có uy tín với dân Văn Lang cũ, đã liên lạc với những lạc hầu lạc tướng vùng Nam Lĩnh phất cờ khởi nghĩa và được hưởng ứng tích cực. Trong 65 thành trì đi theo nghĩa quân thì phần nhiều trên đất Nam Lĩnh. Trước đây đọc sử, không ít người thắc mắc là vì sao dân Vân Nam rất gần Việt Nam mà không tham gia khởi nghĩa Hai Bà Trưng trong khi dân Lưỡng Quảng đi theo đông đảo? Nay có thể trả lời: dân Lưỡng Quảng cùng trong nước Văn Lang với Việt Nam còn Vân Nam thuộc về nhà nước Ba Thục vốn có sự phân cách từ xưa.

   Trên đây là suy đoán của chúng tôi về nước Văn Lang dựa trên tất cả thông tin có được cho đến hôm nay. Một con rồng bay trên mây đang mất hút về phía chân trời. Thợ vẽ bất tài là tôi ráng hết sức chỉ vẽ được đến vậy. Xin bạn đọc lượng thứ.
   Trước đây, trong bài Việt Thường thị ở đâu, Văn lang ở đâu? Tôi có nói Việt Thường cử sứ giả tới nhà Đào Đường là nước Việt tiền thân của Việt Vương Câu Tiễn. Nay chúng tôi thấy đó là sai lầm vì tiểu quốc của Thiếu Khang chỉ xuất hiện cuối đời nhà Hạ, khoảng năm 2100 TCN, xin được cải chính.

Tài liệu tham khảo

1.   1-  Zhou Jixu. The Rise of Agricultural Civilization in China: The Disparity between Archeological Discovery and the Documentary Record and Its Explanation. SINO-PLATONIC PAPERS Number 175  December, 2006
2.      2-Trương Thái Du. Một cách tiếp cận những vấn đề cổ sử ViệtNam
 http://123doc.org/document/1905966-mot-cach-tiep-can-nhung-van-de-co-su-viet-nam-truong-thai-du-pha-n-1-pdf.htm)

                                                                                                                  Sài Gòn, 11.4.2020










Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét