Chủ Nhật, 21 tháng 12, 2014

Sự điên rồ của con người / The Madness of Men


Phạm Việt Hưng


Bourguignon (2)
Abstract: On 02/12/2014, the famous British scientist Stephen Hawking shook the world when declaring: “The development of full artificial intelligence could spell the end of the human race”. This declaration made me think of a judgement by André Bourguignon, a French humanologist in 20th century, that “For a thousand reasons, man has become a mad animal”. Yes, in the name of science and development, men are so mad that they passionately plunge into discovering and inventing things to destroy themselves…
Ngày 02/12/2014, nhà khoa học Anh nổi tiếng Stephen Hawking gây chấn động thế giới khi tuyên bố: “Sự phát triển đầy đủ của trí tuệ nhân tạo sẽ dẫn tới sự cáo chung của loài người”. Tuyên bố này làm tôi nghĩ đến một phán xét của André Bourguignon, một nhà nhân loại học người Pháp trong thế kỷ 20, rằng “Vì một ngàn lý do, con người đã trở thành một động vật điên rồ”. Vâng, nhân danh khoa học và phát triển, con người điên rồ đến mức say sưa lao vào khám phá và phát minh ra những thứ hủy diệt chính mình…
■ ■ ■
Không ai nghi ngờ con người là một sinh vật tiến hóa ở bậc cao nhất, nhưng ít người để ý rằng “Với việc thiết lập bạo lực và giết nhau trong loài của mình, con người tự đặt mình xuống dưới động vật” [1]. Đó là kết luận của André Bourguignon, tác giả của công trình đồ sộ mang tên “L’Histoire Naturelle de l’Homme” (Lịch sử Tự nhiên của Con người), gồm 3 tập:
Tập I – “L’Homme Fou” (Con người điên rồ)
Tập II – “L’Homme Imprévu” (Con người không thể đoán trước) [2]
Tập III – “L’Homme Inachevé” (Con người dở dang). Tập III đúng là dở dang, vì chưa kịp hoàn thành thì tác giả đã ra đi.
Vì Tập III không bao giờ được xuất bản nên tôi đoán tiêu đề “Con người dở dang” có một hàm ý sâu sắc: với định hướng văn hóa như hiện nay – một nền văn hóa chứa đựng những yếu tố điên rồ có thể sớm đưa loài người tới diệt vong – loài người sẽ không bao giờ trở thành con người hoàn thiện với đầy đủ ý nghĩa cao đẹp mà nó được kỳ vọng; loài homo sapiens chưa được người hóa (humanized) một cách đầy đủ thì đã bị tuyệt chủng sớm vì chính sự điên rồ của nó. Vì thế con người là một tác phẩm dở dang trong cuộc tiến hóa của sinh giới!
Phỏng đoán trên là hệ quả tất yếu của những điều đã được trình bày trong Tập II, rằng theo quy luật sinh học, không có loài nào là vĩnh cửu – mọi loài đều trải qua quá trình sinh ra rồi lớn lên và chết đi – loài người không thể là một ngoại lệ. Tuy nhiên, sự diệt vong của loài người có thể đến sớm hơn vì chính sự điên rồ chứa đựng trong nền văn minh của nó.
Không thể phủ nhận rằng nền văn minh ấy đã đạt được những thành tựu rực rỡ, trong đó tôn giáo, triết học, và các khoa học nhân văn từng làm cho con người trở nên người hơn rất nhiều. Nhưng cũng không thể bịt mắt lại để không nhìn thấy một sự thật cay đắng rằng yếu tố điên rồ trong nền văn minh cũng đã gây ra không biết bao nhiêu đau khổ cho con người, làm chậm quá trình người hóa, và đến một lúc nào đó có thể chấm dứt quá trình này. Mỉa mai thay, tính điên rồ chỉ có ở con người. Bourguignon viết:
“Thật vậy, không một loài nào lại say sưa lao vào việc tạo ra nỗi bất hạnh cho mình, vào việc hủy diệt các sinh vật và vật thể như con người; không một loài nào lại bướng bỉnh thực hiện bạo lực và giết nhau trong loài, cá nhân và tập thể như con người… Như vậy, vì một nghìn lý do, con người đã trở thành một động vật điên rồ” [3].
Cái mà Bourguignon kết luận là “sự điên rồ của con người” thực ra cũng gần giống với cái mà Tuân tử ở Trung Hoa cách đây hơn 2000 năm gọi là “nhân chi tính ác” (bản tính của người là ác) [4], và giống với cái mà Sigmund Freud đầu thế kỷ 20 gọi là “Thanatos” (bản năng vô thức thúc đẩy hành vi muốn hủy hoại) [5]. Tuy nhiên có một điểm khác nhau quan trọng.
Cả Tuân tử lẫn Freud, tuy cách nhau hơn 2000 năm, nhưng giống nhau ở chỗ đều quy tính ác trong con người thành bản chất bẩm sinh. Bourguignon không tán thành quan điểm đó. Theo ông, “Nếu Freud có lý thì phải rút ra kết luận rằng những ứng xử gây hấn trong loài (người) có một nền tảng sinh học. Đó là những gene đặc biệt, hay là nhiễm sắc thể tội ác… Nhưng ngược lại, tất cả những cuộc nghiên cứu đều đi tới kết luận rằng ở trình độ cá nhân, những ứng xử gây hấn của con người không bị quy định bởi một nhân tố di truyền nào cả…” [6].
Bourguignon đưa ra một loạt lập luận thuyết phục để bác bỏ việc quy “tính ác” cho bản chất sinh học, và chứng minh rằng những “hành vi điên rồ” ấy có nguồn gốc xã hội – hoàn cảnh chi phối sự phát triển và giáo dục của các cá nhân.
Trong bài “Luận về bản tính Thiện/Ác (3) – Gene tội phạm, một dấu hỏi lớn” [7], bản thân tôi cũng từng lập luận rằng không hề tồn tại cái gọi là “gene tội phạm” – hành vi của con người không quyết định bởi gene, mà bởi môi trường văn hóa và giáo dục. Vì thế tôi hoàn toàn tán thành quan điểm của Bourguignon khi cho rằng sự điên rồ của con người bắt nguồn từ những hoàn cảnh chi phối sự phát triển và giáo dục.
Nếu hoàn cảnh xã hội các thế kỷ 16, 17, 18 tạo ra những nhà khoa học xuất chúng như Isaac Newton, Gottfried Leibniz, Blaise Pascal,… đều là những người tuyệt đối tin tưởng vào Chúa thì hoàn cảnh xã hội thế kỷ 19, 20 dẫn tới sự hạ bệ đức tin tôn giáo và sự suy tôn Chủ nghĩa Duy Khoa học (Scientism).
Nietzsche, bản thân ông là một người vô thần, nhưng lại là một nhà tiên tri khi ông cảnh báo từ cuối thế kỷ 19, rằng “cái chết của Thượng đế” sẽ tạo ra một khoảng trống về đạo đức [8]. Khoảng trống ấy sẽ đẩy xã hội vào khủng hoảng, nếu không tìm được một lý tưởng nào thay thế tôn giáo. Vào thời điểm ấy, khoa học đạt được những thành tựu rực rỡ, đến nỗi người ta tưởng rằng sắp tìm thấy những nguyên lý cuối cùng của vũ trụ. Rất nhiều người vội mừng như đã tìm thấy lý tưởng mới mà Nietzsche đòi hỏi – khoa học chính là lý tưởng mới thay thế tôn giáo! Đó là lý do để Chủ nghĩa duy khoa học ra đời.
Chủ nghĩa duy khoa học là chủ nghĩa coi khoa học là chúa.
Nếu Thiên Chúa giáo tin vào Chúa như Đấng tối cao có thẩm quyền phán xét chân lý thì chủ nghĩa duy khoa học thay thế Chúa bằng khoa học – khoa học thay Chúa phán xét chân lý, không có một lĩnh vực nhận thức hoặc văn hóa nào khác có thẩm quyền phán xét chân lý bằng khoa học. Với Thiên Chúa giáo, lời của Chúa là chân lý. Với chủ nghĩa duy khoa học, các định lý và định luật là chân lý.
Nhưng từ cuối thế kỷ 20 đến nay, chủ nghĩa duy khoa học bắt đầu lung lay. Niềm tin vào tính chân lý của khoa học bắt đầu bị nghi ngờ.
Albert Einstein lên tiếng: “Đừng coi trí tuệ là chúa; nó có sức mạnh cơ bắp nhưng phi nhân tính”. Dường như ông lo lắng cho tương lai u ám của loài người nếu cái sức mạnh cơ bắp phi nhân tính ấy bị lợi dụng cho mọi tham vọng điên rồ của con người. Lời nói của ông giống như một lời tiên tri.
Về mặt triết học, Định lý Bất toàn của Kurt Godel đã giáng một đòn chí tử vào tính chắc chắn của khoa học, chỉ ra rằng chẳng có một hệ thống logic nào của khoa học là đầy đủ để vỗ ngực tuyên bố mình là hoàn hảo. Hóa ra khoa học cũng chỉ là một tập hợp những lập luận dựa trên niềm tin và kinh nghiệm. Khoa học không bao giờ có thể thay thế Chúa. Còn lâu khoa học mới đủ thẩm quyền để phán xét chân lý… Godel không bao giờ trực tiếp đối diện với Chủ nghĩa duy khoa học, nhưng những công trình toán học của ông gián tiếp bác bỏ chủ nghĩa ấy, đặc biệt là công trình cuối đời: Chứng minh sự hiện hữu của Chúa [9].
Không ai dám bác bỏ Godel, và cũng không ai có thể bác bỏ Godel. Nhưng giống như cách người ta đối xử với Định lý Bất toàn, nay người ta đối xử với Chứng minh của Godel về sự hiện hữu của Chúa theo cách tương tự – rúc đầu xuống cát như con đà điểu để không nhìn thấy sự thật. Nhà Phật gọi đó là sự vô minh. Einstein gọi đó là cái “stupidity”, và theo ông, cái “stupidity” ấy lớn vô hạn: “Chỉ có hai thứ vô hạn: vũ trụ và sự vô minh của con người; tôi không chắc về cái thứ nhất…”.
Sự vô minh ấy là gốc rễ của sự điên rồ. Sự điên rồ là gốc rễ của khủng hoảng đạo lý, khủng hoảng môi trưởng, khủng hoảng tội ác, khủng hoảng chiến tranh, khủng hoảng nghèo đói,…
André Bourguignon báo động: “… chúng ta đã bước vào cuộc khủng hoảng nghiêm trọng nhất mà loài người chưa từng biết tới” [10]
Liệu con người có thoát ra khỏi khủng hoảng được không? Liệu con người có trì hoãn sự tuyệt chủng được hay không? Điều này phụ thuộc vào lương tri của toàn nhân loại.
Lương tri của nhân loại là tổng đại số lương tri của từng con người trong 7 tỷ người trên trái đất hiện nay. Nếu lương tri tích cực lấn át sự bất lương thì tương lai còn có hy vọng. Nếu sự bất lượng khuynh đảo dòng chảy tiến hóa thì ngày Doomsday (Ngày tận thế) sẽ đến nhanh chóng.
Bắt đầu từ 1947, khi cuộc chạy đua vũ trang hạt nhân bắt đầu, tạp chí The Bulletin of the Atomic Scientists bắt đầu đưa hình ảnh chiếc Đồng hồ Tận thế (Doomsday Clock) lên trang bìa của nó, để báo động cho toàn nhân loại biết chúng ta đang ở gần ngày tận thế chừng nào. Thời điểm “midnight” (giữa đêm) tượng trưng cho ngày tận thế. Từ 1947 đến 2000, kim đồng hồ đã dịch chuyển 15 lần về phía “midnight”. Năm 2000, kim đồng hồ thông báo còn 9 phút nữa sẽ đến “midnight”. Năm 2010 còn 6 phút. Năm 2012 còn 5 phút…
The BulletinNhững người bi quan cho rằng chiếc đồng hồ này sẽ tiếp tục chạy theo chiều của nó, thậm chí chạy ngày càng nhanh hơn. Nhưng những người tỉnh thức và có trách nhiệm với số phận của nhân loại cho rằng có thể tạo ra những lực cản buộc chiếc đồng hồ này chạy chậm lại hoặc dừng lại, thậm chí vặn ngược chiếc đồng hồ, bắt nó quay ngược, nếu con người tỉnh ngộ để nhận ra sự điên rồ và tội lỗi của mình.
Để con người tỉnh ngộ, phải rung lên những hồi chuông lớn đánh thức mọi người…
Tháng 04 năm 2000, một hồi chuông lớn đã rung lên – bài báo trên tạp chí WIRED, “Why the future doesn’t need us” (Tại sao tương lai không cần chúng ta) của Bill Joy, nhà đồng sáng lập và nhà khoa học đứng đầu tổ hợp Sun Microsystems, tác giả của nhiều khám phá và phát minh trong công nghệ thông tin hiện đại. Bất chấp những ân sủng và lợi lộc do khoa học và công nghệ mang lại cho bản thân, Bill Joy tố cáo sự ngông cuồng của khoa học, cảnh báo mối nguy hiểm to lớn do công nghệ thế kỷ 21 mang lại, và tha thiết kêu gọi giới khoa học hãy thức tỉnh trước khi quá muộn. Bài báo viết:
Những công nghệ mạnh nhất của chúng ta trong thế kỷ 21 – công nghệ robot, công nghệ gene, và công nghệ nano – đang đe dọa biến con người thành một loài nguy hiểm” (Our most powerful 21st-century technologies – robotics, genetic engineering, and nanotech – are threatening to make humans an endangered species).
Bill JoyVũ khí trong thế kỷ 21 gọi tắt là GNR (Genetics + Nanotechnology + Robotics) khác hẳn và nguy hiểm hơn hẳn so với các vũ khí hủy diệt hàng loạt trong thế kỷ 20 ở chỗ GNR có thể tự nhân bản (sel-replicate). Bill Joy viết: “Một quả bom chỉ nổ một lần, nhưng một vũ khí GNR có thể trở thành vô số GNR, và chúng nhanh chóng vượt ra khỏi sự kiểm soát của con người!”.
Vũ khí hủy diệt hàng loạt trong thế kỷ 20, gọi tắt là NBC, gồm vũ khí hạt nhân (Nuclear) + vũ khí sinh học (Biological) + vũ khí hóa học (Chemical), tuy có sức hủy diệt khổng lồ, nhưng việc chế tạo những vũ khí này đòi hỏi nhiều thời gian, cần nhiều nguyên liệu thô hiếm hoi, việc bảo mật rất phức tạp và tốn kém, và nói chung đòi hỏi quy mô sản xuất lớn. Trong khi đó, vũ khí GNR của thế kỷ 21 nguy hiểm hơn nhiều vì chỉ cần một tổ chức nhỏ, một quy mô nhỏ, thậm chí một cá nhân cũng có thể chế tạo với chi phí thấp, và chỉ một lượng nhỏ cũng có thể tự nhân bản thành một số lượng lớn.
Hơn thế nữa, trong khi vũ khí NBC của thế kỷ 20 nói chung nằm trong tay nhà nước, do quân đội quản lý chặt chẽ, thì vũ khí GNR của thế kỷ 21 có thể trở thành hàng hóa thương mại phổ thông, buôn bán và phổ biến rất dễ dàng, thoát khỏi sự kiểm soát của các nhà nước. Trong thời buổi đồng tiền thống trị như hiện nay, cái gì kiếm ra tiền sẽ chiếm vai trò khuynh đảo xã hội. Khi đó, vũ khí GNR càng có cơ hội trở thành thứ vũ khí phổ biến nhất và nguy hại nhất.
Bill Joy viết: “Không có gì cường điệu khi nói rằng chúng ta đang đứng trên đỉnh điểm của cái cực ác… Đây là lần đầu tiên trong lịch sử của hành tinh chúng ta, có một loài, bằng hành động tự nguyện của chính nó, đã trở thành mối đe dọa đối với chính nó và với các loài khác”.
Dù bi quan hay lạc quan, con người phải ý thức được tình hình nghiêm trọng hiện nay. Bill Joy viết: “Trong thời đại hiện nay, mối nguy chúng ta phải đối mặt lớn đến chừng nào, không chỉ vì vũ khí hạt nhân, mà vì tất cả những thứ vũ khí ra đời từ công nghệ hiện đại. Nguy cơ tuyệt chủng lớn đến chừng nào”.
Là một nhà khoa học xuất sắc, Bill Joy biết rõ hơn ai hết khát vọng khám phá thôi thúc con người như thế nào. Ông nhắc lại câu nói bất hủ của Aristotle: “Mọi người về bản chất đều khát khao hiểu biết”. Khao khát hiểu biết được coi như một lẽ sống, một nhu cầu chính đáng như hít thở không khí vậy. Thậm chí khao khát hiểu biết được coi như một lý tưởng cao đẹp, cội nguồn của sáng tạo, đáng được ca ngợi. Trong thời đại ngày nay, chúng ta khao khát hiểu biết đến mức tôn sùng khoa học, cái gì khoác bộ mặt khoa học đều được kính trọng.Nhưng…
Một cái “nhưng” rất đáng chú ý:
Nhưng đứng trước mối nguy hiện nay, khi con người nhân danh hiểu biết để muốn làm gì thì làm, bất chấp mọi hậu quả có thể đến, thì cái gọi là phát triển và khát vọng hiểu biết ấy cũng cần phải được xem xét lại, cần phải được kiểm soát.
Cái gì kiểm soát và điều chỉnh con người?
Câu trả lời: ĐẠO
Poem1_900Nếu tư tưởng quan trọng nhất của ĐẠO là sự cân bằng và hòa hợp với tự nhiên thì nền văn minh hiện đại đã và đang phá vỡ tính cân bằng và trái tự nhiên.
Ngày nay, nhiều người không hề biết đến Đạo Trung Dung, vì thế họ không biết kiềm chế bất kể cái gì. “Trung dung là theo thiên lý (đạo trời) mà giữ lẽ điều hòa, khiến cho không có điều gì chênh lệch” [11]. “Phàm cái gì thái quá cũng là dở cả, chỉ nên giữ thế nào cho tinh thần và vật chất hai bên cùng điều hòa với nhau được thì mới là hoàn toàn” [12].
Khi Chủ nghĩa duy khoa học lên ngôi, cái gọi là khát vọng hiểu biết càng có cơ hội bất chấp, không cần kiềm chế, kể cả khát vọng chế tạo những thứ vũ khí hủy diệt loài người. Chủ nghĩa duy khoa học không có ĐẠO dẫn đường, do đó nó thiên lệch về vật chất, phá vỡ sự cân bằng, đưa thế giới vào khủng hoảng, bất ổn.
Sự lên ngôi của Chủ nghĩa duy khoa học cũng đồng nghĩa với tuyên bố “Thượng đế đã chết” của Nietzsche, đưa con người tới tình trạng vô ĐẠO, con người được sổ lồng với những bản năng Eros và Thanatos mà Sigmund Freud đã mô tả.
Con người sổ lồng ấy đã trở thành những con vật điên rồ như Bourguignon nhận định. Những con vật điên rồ ấy tự cho rằng mình thông minh, nhưng không hiểu rằng đó là cái thông minh do ăn “trái cấm trong vườn địa đàng” mà có – một thứ thông minh tội lỗi!
Ai cũng biết tích truyện “Trái cấm” trong Kinh Sáng Thế, nhưng dường như rất ít người để ý rằng trái cấm ấy ăn vào là trở nên thông minh hiểu biết mọi sự! Điều này có vẻ trái với tuyên ngôn của Aristotle về khát vọng hiểu biết, nhưng nó hàm chứa những ẩn ý sâu sắc mà chỉ những người thích suy nghĩ về ý nghĩa đích thực của cuộc sống mới hiểu. Vậy xin nhắc lại tích truyện “trái cấm trong vườn địa đàng” dưới dạng vắn tắt sau đây:
Charles-Joseph-Natoire_The-Expulsion-from-ParadiseKinh Sáng thế kể rằng trong vườn địa đàng (vườn Eden) có cây “sự sống” và cây “biết lành dữ”. Thiên Chúa ra lệnh cho người rằng: “Con có thể ăn quả các cây trong vườn, nhưng không được ăn quả cây biết lành dữ, vì ngày nào con ăn quả cây ấy, con sẽ phải chết”. Nhưng con rắn xui bà Eva cứ ăn quả đó. Bà Eva thấy quả cây ấy ngon, đẹp mắt và quý, vì ăn vào sẽ được thông minh; bà hái quả mà ăn, bà cũng đưa cho chồng là ông A-đam đang ở gần đấy, và ông đã ăn. Thế là mắt hai người mở ra và thấy mình trần truồng… Hai người đã phạm tội, bị Thiên Chúa đuổi xuống trần gian…
Thử hỏi, còn ai thông minh hơn các nhà khoa học chế tạo vũ khí NBC trong thế kỷ 20 và GNR trong thế kỷ 21? Còn ai thông minh hơn những nhà khoa học về trí thông minh nhân tạo? Họ chính là những kẻ đã ăn trái cấm. Nhưng họ không hề có ý thức về tội lỗi, vì họ là những đệ tử nhiệt thành của Chủ nghĩa duy khoa học. Họ không tin vào thế giới sau cái chết như Kurt Godel đã tin. Họ không tin vào ngày phán xử cuối cùng như các môn đệ của Thiên Chúa giáo. Do đó họ không đếm xỉa đến số phận của nhân loại, họ chỉ cần thỏa mãn tham vọng hiện tại – tham vọng tiền bạc + tham vọng công danh + tham vọng thống trị + và cả tham vọng hiểu biết nữa! Chưa có một nhà khoa học nào bị kết tội vì khao khát hiểu biết, kể cả Werner Heisenberg, cha đẻ của Nguyên lý Bất định trong Cơ học Lượng tử, từng là giám đốc chương trình nghiên cứu chế tạo bom nguyên từ của Hitler trong Thế Chiến II.
Vì thế Bill Joy phải được xem là một người dũng cảm khi đề xuất ý tưởng phải xem xét lại ngay cả cái lý tưởng được coi là cao đẹp như khát vọng hiểu biết. Ông đặt vấn đề cần phải hỏi xem liệu cái lý tưởng ấy có hoàn toàn chính đáng không?
Đọc bài báo của Bill Joy,tôi hiểu rằng ông muốn khuyên chúng ta đừng chỉ biết đặt câu hỏi “what is it?” (đó là cái gì?), mà phải biết đặt câu hỏi “what is it for?” (cái đó để làm gì?). Câu hỏi “what is it?” chỉ là trí thông minh do ăn trái cấm mà có. Câu hỏi “what is it for?” mới làm cho chúng ta người hóa (humanized) để trở thành con người thực sự, thay vì chỉ là “con người dở dang” như Bourguignon nhận xét.
Nếu không hiểu những nghĩa lý đó để điều chỉnh kịp thời thì thế kỷ 21 sẽ lại là thế kỷ của một cuộc chạy đua vũ trang mới – chạy đua phát triển vũ khí hủy diệt dựa trên công nghệ GNR – mà một khi đã bắt đầu thì sẽ rất khó để chấm dứt. Cuộc chạy đua vũ khí hạt nhân trước đây khởi đầu từ chiến tranh. Ngày nay không thể viện cớ chiến tranh để biện minh cho một cuộc chạy đua mới. Nếu chúng ta lao vào cuộc chạy đua mới này, Bill Joy tố cáo, thìchẳng qua vì chúng ta hành động theo một thói quen sai lầm, vì chúng ta chạy theo khát vọng ngông cuồng, vì lợi nhuận, và vì cả nhu cầu hiểu biết.
Bill Joy đề nghị cộng đồng khoa học hãy hưởng ứng lời kêu gọi của Hans Bethe, một nhà khoa học từng đoạt Giải Nobel, một trong những thành viên của Dự án Manhattan (Dự án chế tạo bom nguyên tử của Mỹ những năm 1940) hãy còn sống, rằng tất cả các nhà khoa học hãy “ngừng và từ bỏ việc chế tạo, phát triển, cải tiến và sản xuất vũ khí hạt nhân và vũ khí hủy diệt hàng loạt tiềm năng”.
Liệu cộng đồng khoa học có lắng nghe không? Nếu lắng nghe, liệu họ có hưởng ứng không? Có lẽ phải có một sự trả giá vô cùng đắt nào đó rồi loài người mới tỉnh ra chăng?
■ ■ ■
Bài học của nước Đức có lẽ là điển hình về sự trả giá cho tính điên rồ: Nước Đức đầu thế kỷ 20 là một quốc gia điên rồ nhất khi hai lần gây chiến tranh thế giới; nhưng từ 1945 đến nay, Đức là một quốc gia hòa bình nhất, một trong hai nhà sáng lập Liên Minh Châu Âu (EU), và là quốc gia trụ cột của liên minh này, đi đầu EU trong việc giải quyết các cuộc khủng hoảng trên thế giới bằng phương pháp hòa bình. Chẳng hạn, Đức là quốc gia dũng cảm tuyên bố từ bỏ năng lượng hạt nhân và đi tiên phong trong việc tìm nguồn năng lượng mới…
Mô hình EU tuy chưa phải là hoàn hảo, nhưng cũng là một tấm gương sáng chói cho mọi quốc gia. Bản nhạc bất hủ “Ode to Joy” (Giao hưởng Niềm vui) của Beethoven được lấy làm quốc ca cho EU, nói lên tư tưởng hòa bình của Liên Minh Âu Châu. Trước 1945, còn ai thù hằn nhau hơn ba nước Anh, Pháp, Đức? Nhưng bây giờ khó có thể nghĩ ra một kịch bản nào để ba nước này đi đến chiến tranh với nhau: người Anh, người Pháp, người Đức có lẽ đã “đủ già” để hiểu nên sống với nhau như thế nào.
Ngay cả con gấu Nga, một đế chế vô thần cũ, nay cũng đã trở lại với Chính Thống giáo một cách mặn mà. Họ đã hiểu được cái giá của một xã hội vô thần phải trả.
Thụy Điển xa xưa vốn là một dân tộc hiếu chiến, nhưng từ triều đại của vua Charles XIV, nguyên là đại tướng Jean Bernadotte trong quân đội Napoléon, đã trở thành một quốc gia hòa bình được cả thế giới kính trọng. Một cá nhân Bernadotte với những tư tưởng cao thượng, chống lại mọi tham vọng điên rồ, đã tác động đến cả một thời đại, một dân tộc, tạo ra một không gian Bắc Âu thanh bình, xã hội chủ nghĩa đích thực,…
Vậy rõ ràng vẫn có những quốc gia, những tổ chức, những cá nhân tỉnh táo, nhìn xa trông rộng, không để mình bị cuốn vào trào lưu điên rồ trong cộng đồng nhân loại. Khi kết tội con người là một động vật điên rồ, chắc chắn Bourguignon không có ý vỡ đũa cả nắm. Chắc chắn ông không vơ đũa cả nắm, nhưng ông không thể nói khác khi ông duyệt lại quá khứ của con người, đặc biệt những bi kịch của thế kỷ 20 mà ông chứng kiến, qua đó lộ ra cái xu hướng phản tự nhiên trong nền văn minh của loài người, mà ông không thể gọi nó bằng cái tên nào khác là sự điên rồ.
Ngày 13/09/2014 vừa qua, Đài RFA đưa tin: Đức Giáo Hoàng Francis hôm thứ bảy tuyên bố tại Redipuglia ở mạn bắc Italy rằng, sự gia tăng các cuộc khủng hoảng trên toàn cầu hiện nay chẳng khác gì những mảng của Thế chiến thứ ba. Ngài lên án nạn buôn bán vũ khí và những âm mưu khủng bố đã gieo rắc cái chết và sự tàn phá… Đức Giáo Hoàng cảnh báo, chiến tranh là điên rồ, chiến tranh chỉ mang lại sự tàn phá và chiến tranh được mở rộng bằng sự hủy diệt. Ngài cho rằng lòng tham, sự bất khoan dung, tham vọng quyền lực là ba động cơ đưa tới quyết định gây chiến và thường được biện minh bằng một ý thức hệ…
■ ■ ■
Bourguignon không phải là người đầu tiên nói đến sự điên rồ của con người. Thật vậy, ngay từ thế kỷ 17, Blaise Pascal, một trong những nhà hiền triết sâu sắc nhất của mọi thời đại, đã nói: “Con người điên rồ một cách tất yếu, đến nỗi không điên chẳng qua cũng là một kiểu điên” (Les hommes sont si nécessairement fous que ce serait être fou par un autre tour de folie de n’être pas fou) [13]
Bourguignon đã nhắc lại câu ấy trong cuốn “Con người không thể đoán trước” của ông, vì nó đúng trong toàn bộ lịch sử tự nhiên của con người.
Sau khi vạch rõ sự điên rồ của con người, Bourguignon chỉ ra rằng tương lai của loài người phụ thuộc vào nền văn minh do con người tạo ra. Nhưng nền văn minh ấy hiện nay ra sao? Ông viết:
“Một nền văn minh chỉ dựa vào sự tăng trưởng vô hạn về sản xuất chỉ có thể dẫn tới một cuộc khủng hoảng về năng lượng và nguyên liệu. Một nền văn minh mà những sự khoái lạc gắn liền với tiêu dùng lấn át mất những trao đổi giữa người với người, mà nạn thất nghiệp hoành hành theo lối kinh niên, mà trẻ con bị vất bỏ trở thành những thiếu niên hung hãn, hư hỏng, nghiện ma túy hay lao vào tự sát, một nền văn minh như vậy chỉ có thể chết đi mà thôi. Nhưng nền văn minh tuyệt vọng ấy cũng là nền văn minh của sự ngu đần đi, không phải vì tỷ lệ đẻ ở những người thông minh sẽ thấp hơn, mà là vì những phương tiện truyền thông, đặc biệt là truyền hình, làm nảy sinh tính thụ động, bóp nghẹt tư duy cá nhân dưới một làn sóng thông tin và giải trí tầm thường, thay vì phát triển tinh thần phê phán, xét đoán và sáng tạo…” [14].
Vậy nền văn minh ấy thiếu cái gì? Làm thế nào để thay đổi nó?
Theo tôi, chỉ có một lối thoát duy nhất:
Con người phải trở về với ĐẠO, như các bậc Thánh nhân đã dạy!
The TAO
PVHg, Sydney 09/12/2014
 Chú thích:
[1] Sách đã dẫn trong chú thích 2, trang 448
[2] Đã được xuất bản bằng tiếng Việt, NXB Văn hóa Thông tin, Hà nội 2004, người dịch Huyền Giang.
[3] Sách đã dẫn trong chú thích 2, trang 18-19.
[4] Xem “Luận về bản tính Thiện/Ác (2) – Học thuyết Tuân tử, Hàn Phi”, Phạm Việt Hưng, Khoa học & Tổ quốc Tháng 11/2011, trên mạng Vietscienceshttp://vietsciences.free.fr/timhieu/trietly-giaoduc/luanvethienac02.htm hoặc trên PhamVietHung’s Home.
[5] Xem “Luận về bản tính Thiện/Ác (1) – Học thuyết Sigmund Freud”, Phạm Việt Hưng, Khoa học & Tổ quốc Tháng 10/2011, trên mạng Vietscienceshttp://vietsciences.free.fr/timhieu/trietly-giaoduc/luanvethienac.htm hoặc trên PhamVietHung’s Home.
[6] Sách đã dẫn trong chú thích 2, trang 451
[7] Đã đăng trên Khoa học & Tổ quốc Tháng 12/2011, trên mạng Vietscienceshttp://vietsciences.free.fr/timhieu/trietly-giaoduc/luanvethienac03.htm và trên PhamVietHung’s Home
[8] Xem “Gã điên của Nietzsche” trên PhamVietHung’s Home.
[9] Xem “Godel chứng minh sự hiện hữu của Chúa” trên PhamVietHung’s Home.
[10] Sách đã dẫn trong chú thích 2, trang 492
[11] Nho giáo, Trần Trọng Kim, NXB Văn hóa Thông tin, Hà nội, 2001, trang 186.
[12] Nho giáo, Trần Trọng Kim, NXB Văn hóa Thông tin, Hà nội, 2001, trang 72.
[13] Men are so necessarily mad, that not to be mad would amount to another form of madness
[14] Sách đã dẫn trong chú thích 2, trang 488

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét