Ths Đinh Thị Tuyết, Giảng viên triết học, Đại học Kinh tế & QTKD Thái Nguyên
Krishnamurti được coi là một trong
những nhà tư tưởng có tầm ảnh hưởng lớn của thế kỷ XX. Khi đánh giá về ông,
người ta xuất phát từ nhiều quan điểm khác nhau. Có người xem ông là nhà giáo
dục, nhà tư tưởng nhưng cũng có người ưa thích điều huyền bí về con người ông
thì xem ông là hiện thân của Bồ Tát hay một vị tiên tri nào đó. Dù tiếp cận
dưới góc độ nào thì cũng không thể phủ nhận Krishnamurti là một người yêu
chuộng hoà bình, một triết gia đầy tài năng. Trong số những vấn đề Krishnamurti
quan tâm, giáo dục là đề tài ông bàn đến nhiều nhất và có nhiều giá trị trong
thực tiễn. Ở Việt Nam, do một số lý do, chúng ta mới chỉ xuất bản một số tác
phẩm của Krishnamurti chứ chưa có một công trình nghiên cứu chuyên sâu về tư
tưởng, đặc biệt là tư tưởng giáo dục của ông.
Krishnamurti sinh ngày 12 tháng 5 năm 1895 trong một gia
đình theo đạo Bà la môn tại một thị trấn nhỏ thuộc Madanapalle, miền Nam Ấn Độ. Tổ tiên của Jiddu Krishnamurti thuộc tầng lớp tri thức, có
nguồn gốc từ Giddu hay Jiddu, một ngôi làng nằm giữa những cánh đồng lúa phì
nhiêu của bờ biển Andhra. Cha của Krishnamurti là Marianiah Jiddu - một viên chức
làm việc cho chính quyền Anh. Mẹ của ông là Sanjeevamma, một phụ nữ nhân từ và sùng đạo. Bà được cho là có nhãn
quan tâm linh, kinh nghiệm, và có thể thấy màu sắc trong những hào quang của
con người. Do gia đình bị trói buộc bởi truyền thống, chắc chắn đứa con trai
thứ tám phải được đặt tên là Krishnamurti, biểu tượng của Krishna, sự hoá thân
thứ tám của thần Vishnu trong Ấn giáo.
Khi còn nhỏ, Krishnamurti là một đứa
trẻ yếu ớt và phải chịu đựng những cơn sốt rét nghiêm trọng. Lúc hai tuổi,
Krishna suýt chết vì bệnh sốt rét. Do vậy, cậu thường xuyên bị những cơn co
giật và chảy máu cam. Thậm chí, cậu phải nghỉ ở nhà một năm vì bị chảy máu ở
mũi và miệng. Trong khoảng thời gian này, cậu thường theo mẹ đến các ngôi đền,
được nghe kể về Mahabharata và Ramayana. Cậu cũng rất chăm chỉ thực hiện các
nghi lễ theo truyền thống Ấn Độ. Ở trường, Krishnamurti không được đánh giá cao
về khả năng học hành. Cậu bị coi là một đứa trẻ kém thông minh và tinh thần
không phát triển. Năm 1909, Krishnamurti có cơ hội gặp gỡ với Charles
Webster Leadbeater - một nhà huyền bí học nổi tiếng và có vị trí cao trong Hội Thông Thiên học[1]
tại một khu đất thuộc trụ sở chính của Hội ở Adyar thuộc Madras (bây giờ là Chennai). C.W.Leadbeater
nhận thấy ở Krishnamurti có một hào quang lạ thường, không bị ô uế bởi tính vị
kỷ. Ông quả quyết rằng ngày nào đó chính Krishnamurti sẽ trở thành một người
thầy tinh thần và một người giảng thuyết vĩ đại. Đầu năm 1911, Hội Ngôi sao
Phương Đông (The International Order of the Star in the East) được thành lập
tại Adyar, Ấn Độ với người đứng đầu là Krishnamurti; Leadbeater, Annie Wood
Besant[2]
- với tư cách là người bảo hộ của tổ chức. Mục đích của tổ chức là lôi kéo
những người có cùng niềm tin vào Thầy thế giới (Krishnamurti) và chuẩn bị tinh
thần cho quần chúng đón nhận sự xuất hiện của Ngài. Tuy nhiên, ngày 3 tháng 8
năm 1929, dưới sự chứng kiến của ba ngàn hội viên Hội Ngôi sao Phương Đông, ông
tuyên bố giải tán hội. Năm 1930, ông tuyên bố rút khỏi Tổ chức Thông Thiên học.
Mọi mối dây liên hệ với tổ chức đều cắt đứt và ông cũng không nhận bất kì khoản
trợ cấp hay ưu đãi nào từ tổ chức này nữa. Từ chối vai trò của người Thầy thế
giới và từ bỏ tất cả những gì đã được sửa soạn cho mình sau hơn 20 năm,
Krishnamurti đơn độc tiếp tục cuộc hành trình của mình.
Mặc dù không còn giữ vai trò là Bậc
Thầy thế giới như nhiều người mong đợi, Krishnamurti vẫn tiếp tục tổ chức các cuộc
nói chuyện. Những buổi nói chuyện này diễn ra thường xuyên và bao quát rất
nhiều chủ đề. Đến đâu ông cũng được công chúng nhiệt liệt đón chào và lắng nghe
một cách tôn kính. Trong những năm cuối cuộc đời, dù nổi tiếng và được trọng
vọng trên khắp thế giới, ông vẫn sống một cuộc đời giản dị, chân thành với tất
cả mọi người theo phương châm mà ông đã nêu ra: “Tôi chỉ có mục đích: sao cho
con người tự do, thúc giục con người hướng tới giải thoát; giúp con người phá
vỡ mọi giới hạn để chỉ riêng hành động đó cũng đã cho con người hạnh phúc vĩnh
cửu, cho con người sự nhận biết không bị điều kiện tha hoá bản ngã của mình”[3].
Krishnamurti được sinh ra và lớn lên
trong thời kỳ mà xã hội Ấn Độ cũng như tình hình thế giới có nhiều biến động
sâu sắc. Điều này đã gây tác động và có ảnh hưởng lớn đến tư tưởng của ông về
các vấn đề chiến tranh, hoà bình, tự do…đặc biệt là tư tưởng của ông về giáo
dục. Chính những hậu quả nặng nề của hai cuộc chiến tranh thế giới tàn khốc đã
giúp Krishna nhận thấy giá trị đích thực, to lớn của hoà bình và một thế giới
không có đau khổ, chiến tranh. Xuyên suốt các buổi diễn thuyết và trong các tác
phẩm của mình, ông luôn đề cao một cuộc sống hoà bình, kêu gọi xoá bỏ thù hận
và chia cách. Ông mong muốn giáo dục hướng con người đến hoà bình và tìm ra ý
nghĩa đích thực của cuộc sống. Krishnamurti cho rằng,
“trách nhiệm vụ xây dựng một xã hội hoà bình và an lạc chính
yếu nằm ở nơi nhà giáo dục”[4].
Chính giáo dục phải đảm bảo việc tạo
ra một thế hệ mới không bị chi phối bởi sự tham lam, ích kỷ hay trở thành công
cụ cho người khác thực hiện các mưu đồ chính trị đen tối. Trái lại, mục đích của
giáo dục là hướng tới việc chung sống hoà bình, loại bỏ chiến tranh và thù hận. Muốn đạt được mục đích đó thì điều quan trọng là phải xuất
phát từ những nguyên tắc tiến hành giáo
dục đúng đắn. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập đến một
nguyên tắc được coi là nền tảng, căn bản trong những nguyên tắc tiến hành giáo
dục của Krishnamurti- giáo dục trên tinh
thần tự do.
Bàn về tự do trong giáo dục, Krishnamurti
chỉ ra nguyên nhân dẫn đến sự mất tự do trong giáo dục và giải pháp để tìm kiếm
lại sự tự do đó.
Krishnamurti cho rằng khi học sinh còn nhỏ, cha mẹ che chở cho đứa trẻ khỏi những tổn thương về thể xác và
ngăn chặn những nỗi đau tâm hồn nhưng họ không dừng lại
ở đó mà muốn nhào nặn đứa trẻ theo đúng ý định và dục vọng vô độ. Người lớn đã tìm kiếm sự hoàn thành bản thân họ trong những đứa trẻ. Một đứa trẻ tỉnh táo, thông minh,
tốt lành được đào tạo bởi một giáo sĩ trong vòng bảy năm thì sẽ bị quy định và
bị ảnh hưởng trong suốt phần đời còn lại. Bản thân là một người sinh trưởng
trong gia đình truyền thống lâu đời trong xã hội Ấn Độ, có lẽ Krishnamurti hiểu
được truyền thống và văn hoá đã tạo một sức ép khủng khiếp thế nào lên tâm trí
nhỏ nhoi của con người. Truyền thống giúp con người mang quá khứ vào hiện tại.
Quá khứ không chỉ thừa hưởng của cá nhân mà còn là sức nặng của tư tưởng cộng
đồng trên mỗi nhóm người sống trên văn
hoá và truyền thống. Từ lúc sinh ra cho đến lúc chết, tâm trí chúng ta
bị định hình bởi một nền văn hoá đặc thù theo một khuôn mẫu hạn hẹp. Trong
nhiều thế kỷ chúng ta bị khuôn định bởi quốc tịch, đẳng cấp, giai cấp, văn hoá,
phong tục và thậm chí cả áp lực kinh tế, khí hậu, hoàn cảnh nơi chúng ta sống.
Tôn giáo cũng là một cản trở lớn trong việc tìm kiếm tự do của con người. Chúng ta chấp
nhận quyền uy tôn giáo vì lòng ham muốn mãnh liệt vào sự an toàn ở kiếp này hay
kiếp sau. Nhưng rõ ràng, theo Krishnamurti: “Những tổ chức tôn giáo ấy chỉ là
kết quả của sự ngu muội và sợ hãi của chúng ta, của cái bề ngoài giả dối và vị
kỷ của chúng ta mà thôi”[5]. Tất nhiên, Krishnamurti không phủ nhận vai trò tích cực của
tôn giáo. Điều ông phê phán ở đây là các tôn giáo có tổ chức đã lợi dụng lòng
tin và sự yếu đuối của các tín đồ để gò bó họ vào khuôn phép hay bằng cách nào
đó làm cho họ sợ hãi, phải chấp nhận quyền uy của những người đứng đầu tôn
giáo. Chúng ta luôn
lo sợ và chấp nhận quyền uy để có thể có một cuộc sống dễ dàng. Hơn nữa, con người cũng lo sợ quyền uy của chính quyền, chủ nghĩa ái quốc đã
được lợi dụng để thực hiện các mục đích chính trị. Hơn nữa, Krishnamurti cho
rằng: “Nền giáo dục hiện đại làm cho chúng ta thành những thực thể không có tư
tưởng”[6]
[28,
tr. 64]. Như vậy,
những đứa trẻ được giáo dục trong một môi trường mất tự do, chúng được giáo dục
thành những công cụ. Để làm cho các công dân sẵn sàng hy sinh, chính quyền phải
giáo dục những đứa trẻ trở nên tàn nhẫn và vô tình. Nhà nước đã sử dụng giáo
dục là “một phương tiện dạy những gì
để suy tưởng mà không phải để suy tưởng như thế nào”[7].
Nếu chúng ta suy tưởng một cách độc lập với hệ thống chính trị đang thắng thế
thì chúng ta sẽ bị nguy hiểm.
Bên cạnh đó, sự khuôn định và sức ép
lên tâm trí con người không chỉ đến từ quá khứ xa xôi như truyền thống hay văn
hoá mà còn do nội dung tích luỹ vào trong ký ức từ kinh nghiệm, kiến thức trong
quá trình sống. Kinh nghiệm và kiến thức có vai
trò quan trọng khi giúp con người tồn tại trong xã hội với vô vàn các
mối quan hệ đan xen. Tuy nhiên, vì trông cậy quá nhiều vào kinh nghiệm và kiến
thức, hành động và suy nghĩ của con người trở nên máy móc, khô cằn trong một
khuôn hình có sẵn. Krishnamurti cho rằng tâm trí cần thoát khỏi kiến thức, loại
bỏ kiến thức thì mới trở nên tự do. Cần thấy là kiến thức mà Krishnamurti đề
cập ở đây không phải là kiến thức tìm hiểu về thực tiễn cuộc sống xung quanh mà
là những định kiến khuôn định nên tâm
trí con người.
Vấn đề là tại sao chúng ta lại bị
quy định bởi nhiều quyền uy như vậy? Tất cả chúng ta đều biết có quyền uy nhưng
vấn đề là những quyền uy đó được tồn tại như thế nào. Điều đáng buồn mà
Krishnamurti chỉ ra là chính chúng ta đã chấp nhận quyền uy và bảo đảm cho sự
tồn tại của nó bởi vì chúng ta luôn sợ hãi. Chính sợ hãi đã đẩy chúng ta tìm
kiếm sự an toàn trong tôn giáo, truyền thống, kiến thức. Khi còn trẻ, tất cả
chúng ta đều bất mãn, bất bình nhưng điều bất hạnh là sự bất bình của chúng ta
chẳng bao lâu đã bị mờ nhạt, bị chết ngợp bởi những xu hướng mô phỏng và tôn
sùng quyền uy. Lớn tuổi hơn, chúng ta trở thành những tu sĩ, thư ký ngân hàng,
quản lý các công ty thương mại, kỹ thuật gia… Để đảm bảo cho những địa vị đã
đạt được, chúng ta chấp nhận quyền uy, chấp nhận mất tự do để giành lấy sự an
toàn. Trước hết, chúng ta mong muốn tìm được một cách cư xử an toàn, chúng ta
muốn được chỉ bảo phải làm gì. Bởi vì hoang mang, lo lắng và không biết phải
làm gì nên chúng ta tìm đến một giáo sĩ, giáo viên, cha mẹ hay một người học
rộng nào đó để nhờ họ chỉ bảo phải làm gì. Chúng ta tìm đến đạo sư vì nghĩ rằng
ông ấy là người vĩ đại, biết được sự thật về Thượng đế và có thể trao lại cho
chúng ta sự an bình. Vậy là chúng ta sẵn sàng phủ phục dưới chân, hy sinh cho
ông ấy. Khi chúng ta còn trẻ tuổi, giáo viên có lẽ nói rằng chúng ta không biết
gì cả. Nhưng thay vì khơi gợi sự thông minh, giáo viên lại kêu gọi chúng ta bắt
chước theo những cuốn sách mà họ đã được đọc hay áp đặt quyền uy của họ lên
chúng ta. Bên cạnh đó, chúng ta còn có tài sản phải bảo vệ. Do vậy, chúng ta dễ
dàng chấp nhận quyền uy của chính thể, luật pháp, cảnh sát. Chính phủ được lập
ra để bảo vệ những gì chúng ta sở hữu nhưng lại trở thành uy quyền với chúng
ta. Cũng có những quyền uy của lý tưởng, cái ở bên trong chứ không phải do bên
ngoài mang lại. Sống trở thành một cuộc
chiến liên tục giữa tôi là gì và tôi nên là gì. Tất cả mọi người đều sợ hãi
và đã gieo rắc nỗi sợ đó vào đứa trẻ bằng nhiều cách trong đó có giáo dục. Hầu
hết con người đều luôn sợ hãi bởi giáo viên, cha mẹ hay những điều người khác
suy nghĩ về mình. Mọi người đều sợ hãi khi làm một việc gì đó mà cha mẹ và xã
hội không chấp nhận. Chúng ta phải vâng lời họ nếu không muốn họ tức giận. Vậy
là chúng ta đã bị kiểm soát qua nỗi sợ hãi. Chính những nỗi sợ hãi đó đã ngăn
cản sự sáng tạo và nó khiến chúng ta bám vào người khác như một dây leo bám vào
cành cây. Đó là hình thức bên ngoài của nỗi sợ hãi. Krishnamurti cho rằng phía
bên trong càng nghèo khó bao nhiêu thì chúng ta càng muốn làm phong phú bên
ngoài bấy nhiêu bằng cách bám vào người khác, địa vị, tài sản.
Krishnamurti cho rằng sợ hãi là
thuộc tính cố hữu của con người. Đứa trẻ có những sợ hãi mang tính bản năng,
nhưng quan trọng hơn, chính giáo dục không những không xoá bỏ sợ hãi mà còn làm
gia tăng điều đó ở những đứa trẻ. Điều này bắt nguồn từ những giáo viên, khi họ
sợ hãi thì họ cũng áp đặt những điều đó lên đứa trẻ. Chúng ta cố gắng che đậy
sợ hãi bằng sự kính trọng, bằng cách tuân theo một truyền thống nào đó. Việc
yêu cầu đứa trẻ bắt chước theo truyền thống, văn hoá, kiến thức vừa là sự đảm
bảo an toàn cho giáo viên và họ cũng nghĩ rằng điều đó an toàn cho những đứa
trẻ. Khi đến trường, đứa trẻ được yêu cầu bắt chước truyền thống. Chính sự bắt
chước này huỷ hoại sáng tạo và thông minh ở đứa trẻ. Chúng được yêu cầu bắt
chước trong trang phục, ngôn ngữ và thậm chí là những cuốn sách phải đọc. Những
đứa trẻ không dám suy nghĩ, hành động, sống một cách sinh động mà phải luôn
luôn vâng lời. Chính điều này biến đứa trẻ thành một nô lệ thuần tuý, một răng
cưa trong cỗ máy, sống mà không có bất kỳ khả năng nào để suy nghĩ, sáng tạo.
Trong khi đó, để có được thông minh và tự do, đứa trẻ phải được phát hiện ra ý
nghĩa của tất cả cái gì chúng thấy không phải bằng sự sao chép mà bằng sự quan
sát riêng. Do vậy, theo Krishnamurti, “nền giáo dục đích thực phải xem xét
nghiên cứu vấn đề sợ hãi này, bởi vì sợ hãi làm bại hoại toàn bộ viễn cảnh đời
sống của chúng ta. Làm thế nào để không sợ hãi là bắt đầu khôn ngoan, vì chỉ có
nền giáo dục thích đáng mới có thể gây nên tự do từ sự sợ hãi mà duy chỉ điều
ấy cũng là sâu xa và tạo ra trí thông minh”[8].
Có thể thấy khái niệm tự do ở Krishnamurti
được hiểu từ góc độ thuộc nhận thức của con người, nghĩa là chúng ta được giải
thoát tâm trí khỏi những ràng buộc do quá khứ gây nên trong tâm thức con người,
bất kể sự ràng buộc đó là tốt hay xấu. Con người có tự do là khi thoát khỏi sự
khuôn định từ quá khứ. Khái niệm tự do mà Krishnamurti đề cập đến không liên
quan gì đến quyền tự do thuộc lĩnh vực chính trị, dân sinh hay xã hội, không
liên quan đến hành động cụ thể để biểu lộ ý chí hay ham muốn. Tự do ở đây được
hiểu theo nghĩa là sự “giải thoát” về mặt tinh thần của một cá nhân. Giáo dục
xuất phát từ tự do như vậy mới có thể đánh thức trí thông minh, là điều tiềm ẩn
bên trong mỗi con người. Nếu không có tự do thì cũng không có sáng tạo.
Chức năng của giáo dục là giúp đỡ cá
nhân có tự do, thoát khỏi sợ hãi. Để có tự do trong giáo dục cần có sự tự hiểu biết. Điều
này giúp chúng ta phá vỡ những giá trị mặc
định và gạt bỏ
mọi quyền uy. Quan trọng hơn, chúng ta phải ham
muốn, có sự thôi thúc, sự đòi hỏi để được tự do. Nó giống như ao ước của con
chim để bay được, dòng nước của con sông được trôi chảy. Điều này thực sự không
dễ dàng vì cha mẹ và xã hội luôn ép buộc chúng ta vào một khuôn mẫu trong khi
chúng ta lại quá sợ hãi để chống lại điều đó. Mặc dù muốn được tự do nhưng
chúng ta lại sợ hãi không có việc làm, không tìm được người bạn đời đúng hay sợ
chết đói, sợ những điều người khác nói. Những điều này khoá chặt và ép chúng ta
vào những khuôn có sẵn. Do vậy, Krishnamurti cho rằng điều quan trọng là phải
giúp đỡ đứa trẻ từ tuổi ấu thơ nhất thấy được sợ hãi và tự do thoát khỏi nó.
Khoảnh khắc mà chúng ta sợ hãi là kết thúc với tự do. Tự do thực sự không phải
là cái gì đó để tìm kiếm, nó là kết quả của thông minh. Chúng ta không thể mua
được tự do ngoài chợ, tìm kiếm nó trong những cuốn sách hay lắng nghe người nào
đó thuyết giảng. Vì thế, những đứa trẻ cần được học cách đối diện với nỗi sợ
hãi để có được tự do. Bên cạnh đó, chính quyền không được kiểm soát giáo dục.
Krishnamurti đã chỉ ra rằng: “Chính quyền kiểm soát giáo dục là một tai ương.
Không có được hy vọng hoà bình và trật tự trên thế giới bao lâu mà giáo dục còn
là tôi tớ của Nhà nước hoặc tổ chức tôn
giáo”[9].
Nếu chính quyền kiểm soát giáo dục thì giáo dục sẽ trở thành công cụ phục vụ
cho những lợi ích của nhà nước. Một nền giáo dục bị kiểm soát sẽ không thể có
tự do. Chính quyền không cho phép những đứa trẻ được tự do suy nghĩ vì nếu
những suy nghĩ đó khác với truyền thống, với
đám đông thì sẽ nguy hại cho xã hội. Chừng nào chính quyền còn kiểm soát giáo
dục thì chừng đó trí óc đứa trẻ còn bị quy định bởi một ý thức hệ mà nền giáo
dục đích thực không nên can dự vào bất cứ ý thức hệ nào. Điều đó cản trở nỗ lực
tìm đến tự do của con người. Krishnamurti chỉ ra rằng: “Nền giáo dục đích thực sẽ cổ vũ tính thận trọng
và sự lưu tâm đến kẻ khác mà không quyến rũ hoặc đe doạ dưới bất cứ hình thức
nào”[10]. Giáo
dục một đứa trẻ là giúp nó hiểu biết một cách toàn diện. Giáo dục hướng tới một
nhân sinh quan toàn diện, phá vỡ mọi thiên kiến và những cách biệt xã hội, phản
đối sự ham muốn lợi lộc, theo đuổi quyền uy và thống trị.
Như vậy, nguyên tắc đầu tiên trong
xuất phát điểm của giáo dục của Krishnamurti chính là sự tự do. Ông nhấn mạnh
đến tự do xuất phát từ nội tâm con người. Chính tự do là điều kiện để con người
có thể tiếp cận với cuộc sống một cách hoàn toàn. Khi đồng hành cùng cuộc sống,
chúng ta phải đối diện với hàng loạt các sức mạnh đến từ truyền thống, kinh
nghiệm hay chính quyền. Chính điều này đã ngăn cản chúng ta tiếp cận cuộc sống
như một toàn thể. Sự sợ hãi, mong muốn được an toàn đã làm chúng ta chấp nhận
quyền uy một cách dễ dàng và biến chúng ta thành những kẻ bị nô dịch về tâm
trí. Krishnamurti chỉ ra rằng cần thiết phải có tinh thần tự do trong giáo dục.
Giáo dục phải giúp con người nhận biết được nỗi sợ hãi và nhận biết các quyền
uy đang thống trị tâm trí. Khi nhận biết được những điều đó rồi, học sinh phải
được tự do tìm hiểu về cuộc sống với sự trợ giúp của những nhà giáo dục. Để
mang lại sự tự do đích thực trong giáo dục thì điều cần thiết phải có là tình
yêu và lòng thiện tâm. Tình yêu được hiểu là sự quan tâm lắng nghe, tôn trọng
những đứa trẻ trong môi trường giáo dục. Chính tình yêu xoá bỏ sự sợ hãi và
giúp đứa trẻ có được tự do. Bản thân tình yêu cũng đã là giáo dục. Krishnamurti
cho rằng: “Sự hợp tác giữa thầy giáo và học trò không thể có được nếu không có
tinh thần tương thân tương ái, tôn kính lẫn nhau”[11].
Những năm tháng học sinh trải qua trong trường học phải để lại trong chúng sự
an lành. Điều này chỉ có thể xảy ra khi không có sự ganh đua, không có uy
quyền. Quá trình dạy và học cùng được diễn ra trong hiện tại, nơi cả người giáo
dục và người được giáo dục cùng tham gia vào quá trình học hỏi một cách bình
đẳng, công bằng.
Triết lý giáo dục tự do hay giáo dục
không áp chế, giáo dục xuất phát từ lòng yêu thương không phải là phát hiện mới
của Krishnamurti nhưng điều độc đáo trong tư tưởng của ông về tự do trong giáo
dục là ông chỉ ra được nguyên nhân sâu xa khiến con người mất tự do, không chỉ
trong giáo dục mà còn trong việc tiếp cận với cuộc sống. Cách thức
Krishnamurtichỉ ra để có được tự do trong giáo dục tuy đơn giản nhưng không dễ
thực hiện; nó là sự nỗ lực không chỉ của mỗi cá nhân mà còn cần sự hỗ trợ từ
những người xung quanh, sự từ chối can thiệp vào nội dung giáo dục của nhà nước
và các tổ chức có thẩm quyền. Tuy nhiên, tư tưởng về tự do trong giáo dục của
ông rất đáng cho chúng ta tham khảo và học tập trong bối cảnh giáo dục nước nhà
đang gặp nhiều vấn nạn như hiện nay./.
[1]
Thông Thiên học là một tổ chức không giáo điều,
phi chính trị, không bè phái và mang tính quốc tế do Bà Helena Petrovna
Blavatsky sáng lập năm 1875. Cơ sở lý luận của Hội là thuyết Thần trí
(Theosophy) - một học thuyết cho rằng người ta có thể hiểu biết được thực tại
siêu việt bằng cách mặc khải hoặc truyền thống huyền bí.
[2]
Annie Wood Besant (1847–1933) lãnh đạo Hội Thông Thiên
học từ năm 1907 đến 1933).
[3] Nguyễn Ước biên dịch (2002), Krishnamurti: cuộc đời và tư tưởng, Tập 1:
Krishnamurti tinh yếu, Nxb. Văn học, Hà Nội, tr.4.
[4] Krishnamurti,
Giáo dục và ý nghĩa cuộc sống, Hoài
Thanh dịch (2007), Nxb. Văn hoá Sài Gòn, tr.119
[5]
Krishnamurti, Giáo dục và ý nghĩa cuộc sống, Sđd, tr.89.
[6]
Krishnamurti, Giáo dục và ý nghĩa cuộc sống, Sđd,
tr.64.
[7]
Krishnamurti, Giáo dục và ý nghĩa cuộc sống, Sđd,
tr.99.
[8]
Krishnamurti, Giáo dục và ý nghĩa cuộc sống, Sđd,
tr.38.
[9]
Krishnamurti, Giáo dục và ý nghĩa cuộc sống, Sđd,
tr.94.
[10]
Krishnamurti, Giáo dục và ý nghĩa cuộc sống, Sđd,
tr.39.
[11]
Krishnamurti, Giáo dục và ý nghĩa cuộc sống, Sđd,
tr.36.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét