TMT: Chương trình Minh Triết làm chủ Biển Đông do Trung tâm Minh Triết khởi xướng nhằm tôn vinh và cổ động cho những việc làm góp vào bảo vệ chủ quyền Biển Đảo Việt Nam, thúc đẩy phát triển kinh tế biển, khoa học biển. Xin trân trọng giới thiệu bài trả lời phỏng vấn của Nhà nghiên cứu Trương Nhân Tuấn".
Mặc Lâm, biên tập viên RFA, Bangkok, 10-03-2015
Vị trí Trung Quốc hạ đặt giàn khoan nổi HD-981 trên vùng biển Việt Nam (tháng 5, 2014) |
Mặc Lâm: -Thưa
ông là người nghiên cứu Biển Đông trong hàng chục năm qua theo ông Trung Quốc
đang công nhiên xây dựng trên các bãi đá ngầm tại Trường Sa thì hành động này
có đi ngược lại với DOC năm 2002 yêu cầu phải giữ nguyên trạng các vùng đang
tranh chấp hay không?
Trương Nhân Tuấn: Trung
Quốc đã lợi dụng việc Phi đi kiện, tháng giêng năm 2013, cho rằng Phi đã vi phạm
Tuyên bố chung giữa ASEAN và Trung Quốc năm 2002 gọi là DOC, từ đó lấy cớ tiến
hành việc xây dựng các đảo nhân tạo tại các cấu trúc địa lý tại Trường Sa.
Vụ giàn khoan 981 đặt trên thềm
lục địa VN vào tháng 5 năm ngoái thật ra chỉ là kế “giương đông kích tây”.
Cùng thời điểm đó Trung Quốc đưa tàu bè hút cát, nạo vét đại dương đến Trường
Sa để thực hiện các công trình một cách rầm rộ như thế mà phía Việt Nam, cả năm
sau, hoàn toàn không có một phản ứng nào. Biến cố giàn khoan 981 có thể đã che
mắt mọi người, nhưng không thể che mắt nhà cầm quyền.
Vụ giàn
khoan 981 đặt trên thềm lục địa VN vào tháng 5 năm ngoái thật ra chỉ là kế
“giương đông kích tây”. Cùng thời điểm đó TQ đưa tàu bè hút cát, nạo vét đại
dương đến Trường Sa để thực hiện các công trình một cách rầm rộ.
Trương Nhân Tuấn
Trung Quốc đã chiếm các bãi đá
của Việt Nam từ năm 1988, sau đó cho xây dựng một số công trình có tầm vóc nhỏ vài
trăm mét vuông. Tình trạng đó kéo dài cho đến đầu năm 2014, tức là tuyên bố DOC
có hiệu lực được 12 năm. Việc xây dựng hiện nay đã làm thay đổi nguyên trạng ở
Biển Đông. Các đảo nhân tạo mà Trung Quốc đang xây dựng, như công trình trên đá
Chữ Thập khi hoàn tất có thể lên đến vài chục cây số vuông. Nếu các đảo đó được
quân sự hóa, tương quan lực lượng giữa các bên sẽ thay đổi lớn lao. Trung Quốc,
dựa vào các đảo vừa xây dựng, có thể tuyên bố vùng “nhận diện phòng không”, đồng
thời phong tỏa để chiếm các đảo khác hiện đang trong tay của Việt Nam và Phi,
và có thể cả Đài Loan.
Hành động này của Trung Quốc dĩ
nhiên đi ngược lại tinh thần của Tuyên bố DOC 2002. Nhưng văn bản này vốn không
có giá trị ràng buộc. Do đó cũng không nước nào làm gì được Trung Quốc.
Mặc Lâm: Theo
ông thì sự im lặng của Việt Nam có thể được xem là từ bỏ chủ quyền theo luật quốc
tế. Có cách nào để sửa sai hay ít ra điều chỉnh lại hay không?
Trương Nhân Tuấn: Theo
một số phán lệ của Tòa án quốc tế, thái độ im lặng trong một số trường hợp có
thể được xem là sự “đồng thuận”. Sự đồng thuận có thể “mặc thị” hay “ám thị”.
Đây là một nguyên tắc quan trọng trong luật học, gọi là “acquiescement “,
có hiệu lực tương tự như nguyên tắc “Estoppel “.
Những hành vi của Việt Nam, có
thể xem là các dấu hiệu “acquiescement-đồng thuận”, công nhiên hay mặc nhiên
nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc tại các đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Thứ nhứt
là công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng. Thứ hai là thái độ im lặng của chính phủ
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trong biến cố 17-1-1974 khi Trung Quốc đưa quân xâm
lăng quần đảo Hoàng Sa. Thứ ba, thái độ của Việt Nam vào tháng 3 năm 1988 khi
Trung Quốc chiếm một số bãi đá ở Trường Sa.
Về công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng,
Việt Nam hiện nay có khuynh hướng diễn giải nội dung chỉ công nhận 12 hải lý về
hải phận chứ không có ý nghĩa về nhìn nhận chủ quyền. Tuy nhiên, nội dung tuyên
bố của Trung Quốc năm 1958 không phải chỉ nói về hải phận 12 hải lý mà còn nói
về chủ quyền của Trung Quốc tại các đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ta có thể xem là
Việt Nam đã “im lặng” trước tuyên bố về chủ quyền của Trung Quốc.
Theo luật quốc tế, trong những
trường hợp đòi hỏi quốc gia liên hệ phải có một thái độ dứt khoát, thì sự im lặng
đó có thể được hiểu như là sự đồng thuận. Tức là, theo nguyên tắc
“acquiescement”, Việt Nam đã mặc nhiên đồng thuận chủ quyền của Trung Quốc tại
Hoàng Sa và Trường Sa.
Theo luật
quốc tế...thì sự im lặng đó có thể được hiểu như là sự đồng thuận. Tức là, theo
nguyên tắc “acquiescement”, Việt Nam đã mặc nhiên đồng thuận chủ quyền của
Trung Quốc tại Hoàng Sa và Trường Sa.
Trương Nhân Tuấn
Trường hợp tháng giêng năm
1974, trước hành vi Trung Quốc xâm lăng lãnh thổ của VN, hai chính phủ Nam và Bắc
Việt Nam đều có trách nhiệm như nhau trong vấn đề bảo vệ lãnh thổ chung. Rốt cục
miền Bắc, đã không tìm cách can thiệp vào cuộc xâm chiếm đó mà còn từ chối đứng
chung với miền Nam để ra một tuyên bố chung chống lại Trung Quốc. Hành vi Trung
Quốc xâm chiếm lãnh thổ bắt buộc chính phủ các bên phải có thái độ. Việc giữ im
lặng ở đây cũng được xem là dấu hiệu của “acquiescemnt”, mặc nhiên nhìn nhận lý
lẽ và hành vi xâm chiếm Hoàng Sa của Trung Quốc là chính đáng.
Trường hợp ngày 14 tháng 3 năm
1988, Trung Quốc đem quân xâm lăng một số đá, bãi của Việt Nam tại Trường Sa.
Dĩ nhiên Trung Quốc đã sử dụng bạo lực. Vấn đề là phía Việt Nam đã không sử dụng
quyền “tự vệ chính đáng” được Hiến chương LHQ qui định để chống trả lại. Phía
Việt Nam được lệnh là không được nổ súng bất kỳ giá nào. Nhà nước Việt Nam cũng
từ chối mọi thủ tục pháp lý có sẵn để tranh đấu chống lại Trung Quốc ở thời điểm
đó. Mặc dầu nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam lúc đó có đầy đủ tư
cách pháp nhân để thực hiện. Các công hàm phản đối dĩ nhiên không có hiệu lực bằng
các phương tiện pháp lý.
Đá Gạc Ma của Việt Nam ở quần đảo Trường Sa bị Trung Quốc cưỡng chiếm từ năm 1988, sau khi cải tạo đất và xây dựng năm 2014 nay đã trở thành đảo nhân tạo nối với cơ sở ban đầu của bãi đá này, có cả 1 sân bay trực thăng và 1 trạm xi măng - Ảnh: Airbus Defence & Space/IHS Jane’s |
Nếu đưa ra một trọng tài quốc tế,
chắc chắn thái độ của các chính phủ VNDCCH hay CHXHCNVN trong quá khứ sẽ gây bất lợi cho Việt Nam. Việt Nam có thể thua kiện.
Theo tôi, để Việt Nam hiện nay
có nhiều xác suất thắng kiện, nhà nước Việt Nam cần phải thực thi những thủ tục
để “kế thừa” di sản của VNCH trước kia. Chỉ khi nào đứng dưới tư cách người thừa
kế chính đáng của VNCH thì danh nghĩa chủ quyền của VN mới được củng cố.
“Liên
minh” với Mỹ để trở thành một nước giàu và mạnh, ít ra như Đại Hàn. Vì một Việt
Nam nghèo đói sẽ không ngăn cản được TQ mà còn là một gánh nặng cho Mỹ. Chỉ có
liên minh với Mỹ về quốc phòng thì VN mới có thể bảo vệ được toàn vẹn lãnh thổ.
Trương Nhân Tuấn
Riêng về hiệu lực của công hàm
1958 của ông Phạm Văn Đồng, theo tôi là không thể giải thích theo lối hiện nay.
Vì giải thích thế nào thì cũng nhìn nhận nó có hiệu lực, chỉ nhiều hay ít. Mà
cách tốt nhứt phải phủ nhận hoàn toàn hiệu lực của nó, bằng cách dựa vào hai Hiệp
định Genève 1954 và Hiệp định Paris 1973. Theo nội dung hai hiệp định này thì
các nước nhìn nhận Việt Nam là một quốc gia duy nhứt và lãnh thổ toàn vẹn. Vịn
vào đó, các tuyên bố, các hành vi nào của một bên nếu xâm phạm đến sự “toàn vẹn
lãnh thổ của Việt Nam” thì nó vô giá trị.
Mặc Lâm: Ông
nghĩ thế nào nếu Việt Nam liên minh với Mỹ? ngoài chỗ dựa vào quân sự thì nước
Mỹ sẽ giúp cho Việt Nam các phương tiện như luật sư, kinh nghiệm, luật quốc tế
để đối phó với Trung Quốc trên mặt trận pháp lý mà điều này thì Việt Nam cần
không kém khả năng quân sự?
Trương Nhân Tuấn: Theo
tôi, mình thấy Việt Nam hiện nay đã đi vào quĩ đạo của Trung Quốc mà việc này
dài lâu sẽ giam hãm Việt Nam vĩnh viễn trong nghèo đói và chậm tiến.
Trên quan điểm địa chiến lược của
Trung Quốc, nước này chỉ có thể trở thành “đại quốc” khi các nước chung quanh
“yếu”, không thể đe dọa được an ninh cũng như sự phát triển của họ.
GDP của Trung Quốc hiện nay lên
hàng thứ nhì và ngân sách quốc phòng cũng hàng thứ nhì. Ngân sách này chính thức
vào khoảng 150 tỉ đô. Số thật sự có thể lên gấp đôi.
Một cái nhìn khác, Mỹ lại không
muốn thấy một “đại cường” Trung Quốc đối trọng với Mỹ trong khu vực. Mỹ không
thể tái dựng lại “chiến tranh lạnh” nhằm cô lập Trung Quốc mà chỉ có thể giúp
các nước đồng minh như Nhật, Đại Hàn, Phi, Thái Lan… giàu mạnh để thiết lập một
hàng rào các nước đồng minh để bao vây Trung Quốc. Việt Nam như thế có hai lựa
chọn:
Một là không liên minh với ai hết
như hiện nay. Kết quả là nghèo đói và chậm tiến, lãnh thổ mất lần hồi, vì đó là
mục tiêu chiến lược của Trung Quốc.
Hai là “liên minh” với Mỹ để trở
thành một nước giàu và mạnh, ít ra như Đại Hàn. Vì một Việt Nam nghèo đói
sẽ không ngăn cản được Trung Quốc mà còn là một gánh nặng cho Mỹ. Chỉ có
liên minh với Mỹ về quốc phòng thì Việt Nam mới có thể bảo vệ được toàn vẹn
lãnh thổ, vùng biển, vùng trời của quốc gia mình.
Ngoài ra, về pháp lý, Hoa Kỳ, với
một lực lượng luật gia hùng hậu, cũng là nước duy nhất có thể giúp Việt Nam thắng
được mặt trận pháp lý đối với Trung Quốc.
Mặc Lâm: Xin
cám ơn nhà nghiên cứu Biển Đông Trương Nhân Tuấn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét