Nguyễn Khắc Mai
Kê Minh Thập Sách, nghĩa là Mười Kế Sách dâng vua lúc Gà Gáy Sáng,
tương truyền là của Bà Nguyễn Cơ Bích Châu, một vị phi hậu của vua Trần Duệ
Tông (1336-1377).
Kê
Minh Thập Sách, nghĩa là Mười Kế Sách dâng vua lúc Gà Gáy Sáng, tương truyền là
của Bà Nguyễn Cơ Bich Châu, một vị phi hậu của vua Trần Duệ Tông (1336-1377).
Theo
Truyền Ký Tân Phả của Đoàn Thị Điểm, Bà “là con gái nhà quan, tính cách cứng cỏi,
tư dung tươi đẹp, thông hiểu âm luật Lê viên, theo đòi văn từ nghệ phố, Vua Trần
Duệ Tông nghe tiếng cho tuyển vào cung. ” Nhân thấy chính sự triều Trần, sau khi
Dương Nhật Lễ tiếm quyền, ngày càng suy kém, Bà liền thảo bài “Kê Minh Thập
Sách “dâng lên. (Kê Minh, tên một bài thơ trong Kinh Thi, nói về một bà Hậu, nghe
gà gáy sáng liền khuyên nhà vua trở dậy đi dự phiên chầu. Tên bài thơ về sau được
dùng để nói việc vợ khuyên chồng lo việc quốc gia.)
Các
nhà nghiên cứu Kê Minh Thập sách như Vũ Ngọc Khánh, Chương Thâu, Hữu Ngọc…đều
khẳng định tiếng gà gáy là hình tượng của sự thức tỉnh. Hữu Ngọc trong một bài
viết đăng trên Le Courrier du Vietnam có nhan đề “Tiếng gà gáy vọng về qua nhiều
thế kỷ”. Liệu tiếng “Kê minh” đã vang vọng từ bảy thế kỷ nay, có làm thức tĩnh
điều gì trong chúng ta, khi bước vào thời kỳ mới của công cuộc chấn hưng và
phát triển đất nược hay không? Quả thật mỗi điều là một minh triết. Nó không phải
là tư duy duy lý, mà là những chân lý giản đơn, có tính khái quát, phổ cập rất
cao. Chúng giống như những công thức, mà mỗi thời đều có thể đem dùng trong những
bài toán cụ thể về chính trị, kinh tế, văn hóa, dân sinh của thờn đại mình.
Mở
đầu, Bà nêu lại một phương châm phòng ngừa từ xa “cư an tư nguy” - ở vào thời
yên phải tính lúc nguy, gây nền trị từ khi chưa loạn.
Thập
sách của Bà dâng lên gồm bốn chính sách về chính trị, hành chính, hai chính
sách về văn hóa, giáo dục, tư tưởng và bốn chính sách quân sự. Chúng tôi mạo muội
gọi là những Minh Triết Trị Nước An Dân.
Ở
hàng đầu, Bà nêu lên vấn đề có tính nguyên tắc, đạo lý của mọi đường lối chính
trị. Đó là đạo lý tôn dân. Bà nói “Phù Quốc
bản, hà bạo khử tắc Dân tâm tự an”. Có nghĩa là nâng lên, đề cao gốc nước. Gốc
nước, chính là người dân. Trong truyền thống đạo trị nước của Việt Nam từ ngàn
xưa, nguyên lý “Quốc dĩ dân vi bản” -
Nước lấy dân làm gốc bao giờ cũng được coi như nguyên lý số một. Mà để làm được
điều đó thì hàng đầu lại là phải bỏ đi mọi hà khắc bạo ngược trong mọi ứng xử. Từ
luật pháp, đên chính sách cụ thể cho đên phương thức, phương châm phương pháp để
điều hành xã hội trong mọi mối quan hệ dù ở cấp vĩ mô hay ở cơ sở. Tự nhiên ta
nhớ tới một mong ước lớn lao của Nguyễn Trãi: ”Sinh đời thái bình ai cũng được ở yên. Gặp thuở thánh minh ai cũng được
thỏa sống”. Và “Làm sao trong thôn
cùng xóm vắng không còn lời hờn giận oán sầu”. Ta không thể không thử hỏi
cái lý tưởng nhân văn ấy, ngày nay ta hành xử thế nào. Bà còn chỉ ra ba vấn đề
lớn nữa, là (i) Loại bỏ phiền nhiễu để kỷ
cương không rối loạn. (ii) Thải loại bọn quan lại tham nhũng để giảm bớt sự
chài vét của dân. (iv) Đè nén lũ lộng quyền để trừ lũ sâu mọt hại dân. Những
tệ nạn phiền nhiễu, tham nhũng, lộng quyền đang hoành hành làm băng hoại xã hội
hôm nay. Bà dùng chữ rất chuẩn. Với phiền
nhiểu thì phải loại bỏ. Với quan
lại tham nhũng thì thải, đuổi. Không như ta bây giờ, tham
nhũng cấp dưới thì đưa lên cấp trên, cho chức tước cao hơn! Còn với lũ lộng quyền thì đè nén, bọn này có kẻ ỷ công trạng, có kẻ nhiều quyền lực, kể cả
quyền lực kinh tế, nên chỉ có thể dùng pháp luật để đè nén, ngăn ngừa, hạn chế.
Tham nhũng và lộng quyền đang phá hoại đất nước, xã hội, đang chà đạp lên Dân, lên
kỷ cương pháp luật.
Về
Văn hóa, Bà nêu hai điều. Một là: ”Chấn
hưng nho phong để cho ánh đuốc (văn hóa) như mặt trời mặt trăng soi sáng khắp
nơi. ” Nho phong không chỉ là học hành, còn là vấn đề nhân cách. Một mách bảo
sáng suốt cho công việc văn hóa giáo dục hôm nay! Hai là “Hãy cầu lời nói thẳng, khiến cho cổng thành và đường ngôn luận cùng rộng
mở. ” Lời nói thẳng nghĩa là phê bình, phản biện liên quan với việc mở rộng
giao thương và con đường ngôn luận để mở mang trí tuệ, phát triển nhân cách xây
dựng xã hội, quả thật là những dự báo thiên tài, một tư duy rất thời sự, hiện đại.
Vế
quân sự, Bà chỉ ra bốn lãnh vực. Kén quân
cốt người khỏe mạnh rồi mới tính đến dáng vóc. Tuyển tướng phải chọn người thao
lược sau mới tính thế gia. Vũ khí phải bền chắc. Trận pháp phải chỉnh tề. Riêng
tư tưởng “tuyển tướng phải người thao lược”.
Đó là sự khôn ngoan muôn đời, không chỉ trong quân sự, mà nó phổ biến ở mọi
lãnh vực. Riêng việc chỉ chọn người cùng phe cách, chọn người nhà chứ không phải
người tài, và ở hầu hết các lĩnh vực không có người thao lược có tầm vóc tổng
công trình sư đang là vấn nạn của đất nước tại buổi “kim nhật, kim thì”, thì tiếng gà báo thức xuyên thế kỹ thật rất có
nhiều nghĩa cảnh báo.
Không
phải ngẩu nhiên, mà Lê Thánh Tông đã ca ngợi Bà, truy tôn Bà với mỹ tự: Chế
Thắng Phu Nhân. (Vị Phu nhân của
mọi chiến thắng). Trong sách sử nước ta và của Trung hoa, như Từ điển Hán
Việt của Đào Duy Anh, hay trong Từ Hải của Trung quốc, “chế thắng” được định nghĩa là người chế định ra được mưu lược để
giành thắng lợi.
Quả
thật Kê Minh Thập Sách là những tư tưởng
chiến lược, mà bất cứ ai hiểu được, cảm nhận được, và biết tìm mọi cách đẻ đưa
vào thực tiễn hành động, sẽ bảo đảm được thắng lợi.
Hồn thiêng của Tổ tiên và Văn hóa Việt đang chỉ
cho ta hãy bước vào thời buổi này với một tầm nhìn, một trí tuệ, một quyết chí mạnh
mẽ, sáng suốt, đem cái minh triết ấy để giải quyết cho bằng được những bài toán
đật ra cho Dân, cho Nước trong thời đại mới. Những ai đang điều hành đất nước, những
trí thức đang tìm cách hiến kế, đổi mới thể chế, chính sách, luật pháp, chấn chỉnh
đội ngũ cán bộ, công chức… hôm nay, nên tìm đọc và ngẫm nghĩ về Mười
chính sách mà chúng tôi gọi là Minh Triết trị nước an dân của Kê Minh Thập sách. /.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét