NGUYỄN
KHẮC MAI
Phan Chu Trinh (1872–1926), người mở đầu cho phong trào Duy Tân và có công lớn trong việc lập Đông Kinh Nghĩa Thục. |
TMT: Nhân công bố lời mời tham gia viết và gửi bài nhân kỷ niệm 110 năm phong trào Đông kinh Nghĩa thục (tháng 3.1907), Thôn Minh triết xin đăng lại bài "Cảm nhận giá trị Minh triết" của tác giả Nguyễn Khắc Mai, Giám đốc Trung tâm Minh triết.
Minh triết, như tôi hiểu
là những tư tưởng và rộng lớn hơn là những giá trị văn hóa, có tính khái quát
và phổ quát, ý nghĩa rộng, trường tồn có thể đem ứng dụng cho nhiều hệ thống.
Chúng đạt tới tính chất của những giá trị xã hội và nhân sinh phổ quát. Minh
triết tham gia vào đời sống xã hội giống như chất tủy của một sinh vật. Ta gọi
đó là cốt tủy, là tinh túy của một hệ thống xã hội.
Đông
Kinh Nghĩa Thục trăm năm trước xuất hiện như một ánh sao băng trong lịch sử
hiện đại Việt Nam, một đi không trở lại. Hình ảnh của nó, ánh sáng của nó, hiện
tượng của nó ta chỉ ghi nhận được ttrong khoảnh khắc, nhưng năng lượng nó tỏa
ra thì đã lan truyền mãi trong vũ trụ. Cái năng lượng mà ta cần và phải tiếp
nhận từ Đông Kinh Nghĩa Thục là những Minh triết mà những con người thuở ấy đã
tạo ra.
1.
Minh triết “Tuyết Quốc sỉ” “Hóa Dân Cường Quốc”.
Đông
Kinh Nghĩa Thục đưa ra những quan niệm Quốc gia – Dân tộc – Quốc dân và lòng
yêu nước mà ngày nay vẫn tồn tại như những giá trị cập nhật, mà bất cứ ai muốn
xứng đáng, không phải xấu hổ với 4 thành tố ấy đều phải học hỏi chiêm nghiệm và
tìm cách hành động. Nói hành động là nói cả sự mở mang kiến thức để phá vỡ cái
u tối của mình.
-
Lòng yêu nước trong Đông Kinh Nghĩa Thục thể hiện thành 3 điều:
a. Một là lo nghĩ về vận nước: “Than ôi! Lo không gì
lo hơn mất nước, buồn không gì buồn hơn thân bị nhục”.
b. Hai là, thấy sỉ nhục dân mất nước, thân nô lệ,
dân tộc và xã hội yếu hèn, lạc hậu. các nhà Đông Kinh Nghĩa Thục gọi là “Tuyết Quốc sỉ”. Tuyết là làm sạch nỗi nhục nô lệ,
yếu hèn và lạc hậu.
c. Ba là, quyết định hành động để “Hóa Dân Cường Quôc”. Cái triết lý “Hóa Cường” ấy vừa cổ kính vừa cập nhật. Cái quan
niệm phải chuyển hóa quốc gia, phải làm cho tiến hóa dân tộc là rất mới mẻ vào
trăm năm trước, mà hôm nay nghiệm ra cuối cùng cũng phải “đổi mới”. Nhiều chủ trương “đổi mới” hôn nay chúng ta đã thấy được đề cập
từ Đông Kinh Nghĩa Thục. Để có thể “Hóa Cường” trước hết phải có Độc lập. Để
giành lại và giữ gìn độc lập “Nước phải mạnh”. Nhưng “Nước mạnh hay yếu là do Dân. Dân mạnh thì nước yếu có thể chuyển
thành mạnh, và mạnh lâu dài”. Phải đổi mới cái tư cách của người
dân. Lần đầu tiên Đông Kinh Nghĩa Thục đưa ra quan niệm Quốc dân là một quan
niệm tiên phong, đi trước thời đại cả trăm năm. Quốc dân chính là cái lõi, cái
xương sống của quốc gia, dân tộc. Quốc dân phải là những người “Rõ cái lý tương quan giữa dân và nước ... biết vị trí của họ
trong xã hội ... để gây ý thức ái quốc, ái quần, bồi dưỡng tài năng tự trị, tự
lập”. “Muốn nước được bình trị mà mong ở vua hiền, tướng giỏi thì không bằng
mong ở dân mạnh”. Ngày nay chúng ta kế thừa tư duy ấy
đã ghi vào Hiến pháp được một số điều cơ bản về nhân cách và nhân quyền của
Quốc dân (công dân). Không hteer nói rằng cái lý tưởng xây dựng Quốc dân với tư
cách là “cường dân” hoàn chỉnh như Đông Kinh Nghĩa Thục
mong ước, chúng ta bọn hậu thế không làm được gì. Nhưng để đạt cho được cái
Minh Triết Quốc dân ấy còn phải sửa đổi và làm nhiều hơn nữa. Quan niệm Quốc
dân và “dân mạnh” của Đông Kinh
Nghĩa Thục quả thật sắc sảo, cấp tiến, có khi vượt so với quan niệm nhân dân mơ
hồ và dân giàu chỉ nói được một khía cạnh. Quan niệm dân mạnh của Đông Kinh
Nghĩa Thục bao gồm: mạnh về trí tuệ học vấn, năng lực khoa học, công nghệ và
thực nghiệp; mạnh về phẩm chất đạo đức yêu nước, bác ái, tiến thủ cạnh tranh,
biết vị trí của mình trong xã hội; mạnh về ý thức thực quyên, không nhất thiết
trông chờ Chính phủ, bởi vì “quan cũng chỉ là một người dan
nắm chính quyền”; thiết thực nhất là mạnh vì có sản nghiệp và
biết làm chủ sản nghiệp.
Triết
lý “Hóa Dân Cường Quôc” của Đông Kinh Nghĩa Thục đặt
ra một loạt vấn đề có tính hệ thống: từ xây dựng một chính thể dân chủ của Việt
Nam, do Việt Nam, vì Việt Nam; một nền giáo dục hoàn toàn Việt Nam(mà năm 1945
Hồ Chí Minh đã cảm nhận và nói ra). Một nền kinh tế biết coi trọng và phát
triển cái vốn (tư bản) coi trọng nông, công, thương; coi trọng luật pháp để bảo
vệ tài sản, bảo vệ hoạt động công thương ... coi trọng phát huy mọi phương
thức, phương tiện hiện đại để phát triển và quản lý kinh tế.
“Hóa
Dân Cường Quôc” để đạt tới Văn minh và
tiến bộ, để có sức mạnh nội lực mà giữ gìn độc lập. “Hãy làm cho nước Nam của ta càng văn minh, kế ấy là kế của nước,
cũng tức là kế của bản thân mình. Bởi vì “Không thể như trăm năm trước nữa, cứ đóng cửa mà trị dân, dù không
tiến bộ cũng có thể ngồi mà giữ nước”.
2.
Minh Triết “Chủ nghĩa mở trí khôn cho nhân dân”.
a.
Để “Hóa Dân Cường Quôc” giáo dục phải là hàng đầu,
một trăm năm trước Đông Kinh Nghĩa Thục đã khẳng định. Nay học theo Minh Triết
ấy mà nêu khẩu hiệu: Giáo dục là Quốc sách hàng đầu. Đem tư tưởng của người xưa
kết hợp với kiến thức hiện đại để làm cho thật sự có kết quả.
b.
Phải phổ cập giáo dục “Làm cho cả nước văn minh thì
phải có giáo dục phổ cập”. Giáo dục phổ cập là cả nước không một người nào
không được đi học”.
c.
Mục tiêu giáo dục “Theo lý chung thì học là để có
ích cho bản thân mình và cho quốc gia, xã hội. Có ba điều. Một là học vệ
sinh, tức là học phương pháp làm cho thân thể cường tráng, không bệnh
tật. Hai là, học trị sinh, tức là học phương pháp làm cho có thức ăn, đồ mặc và
quản lý sản nghiệp. Ba là học làm người, làm quốc dân, tức là học cách tự kiềm
chế và cách đối xử với quốc gia, xã hội”. Đây quả thực là
thiên tài Việt. Bởi vì phải một trăm năm sau Jacques Delors mới tổng kết thành
4 trụ cột của giáo dục hiện đại1. Ngôn từ khác nhau nhưng ý tưởng thật
tương đồng. Đông Kinh Nghĩa Thục còn chủ trương “Dục khai
dân trí tiên khai thân trí”. Nay ta đang có nhu cầu cấp
bách nâng cao quan trí và sĩ trí.
d.
Phải bỏ lối học khoa cử vì hư danh và để làm quan. Vì “Khoa cử nọc độc, khoa cử thối nát”. Cổ vũ giáo
dục thực nghiệp, học và thi cử gắn với công việc. “Để cho cái mà học sinh học và thi không trái với công việc thực
tế họ phải làm”. Đề cao một phương pháp học tập thật văn
minh, tiến bộ (mà ngày nay chúng ta cũng chưa làm được). “Đặt đề mà hỏi, cho phép học trò bàn bạc tha hồ, đối đáp tự do
không phải nề hà, không cần thể cách gì hết”. Nhà trường
không khép kín, nhà tewowngf mở ra với những nhiệm vụ và hoạt động cứu nước,
chấn hưng văn hóa và xã hội.
e.
Đông Kinh Nghĩa Thục còn có một Minh triết vô ngôn. Đó là nhân cách và vai trò
của người thày, của kẻ sĩ, của trí thức củ dân tộc và thời đại. Nhân cách người
thầy, nhân cách kẻ sĩ của các cụ Đông Kinh Nghĩa Thục thật cao cả. Họ để lại
bài học quý giá cho hậu thế.
Tiểu
kết cho mục Minh triết về giáo dục này, tôi chỉ xin nêu một câu hỏi cảm khái:
Tại sao ông Bộ trưởng và toàn ngành giáo dục không nhân dịp kỷ niệm ngôi trường
vĩ đại ấy của dân tộc mà tổ chức một cuộc học hỏi thật nghiêm túc và thông tuệ
để tiếp thêm năng lượng cho sự nghiệp đổi mới nền giáo dục hiện nay?
3.
Minh Triết “Chấn hưng công nghệ”. Xây
dựng một nền kinh tế tự chủ, tự lực, tự cường, có công thương tín phát triển
theo quy luật phổ biến với những phương thức hiện đại. Coi trọng công
nghệ. “ Công nghệ rất quan hệ với quốc gia. Ta không hơn người thì người
sẽ bỏ rơi ta. Tiền của phung phí ra ngoài nước, không còn gì tệ hại hơn thế
nữa.” Coi trọng tiến thủ và cạnh tranh “Cạnh tranh để tồn tại” “Chỉ có thể tin cậy vào sự cạnh tranh của
dân ta mà thôi”. Coi trọng sản nghiệp “Thế giới càng văn minh thì của công càng ít, của riêng càng
nhiều.” “Sản nghiệp nên là của riêng, không nên là của công”. Các tài sản vô hình (sáng chế, kỹ thuật của nghệ
nhân, nhãn hiệu, tác phẩm, thư tín ...) đều được coi là sản nghiệp. “Nước càng văn minh thì pháp luật bảo vệ sản nghiệp càng tường
tận”. Phải coi trọng nhà doanh nghiệp. “Giá như người giàu bỏ vốn ra phát triển công nghiệp thì dân ta sẽ
cảm kích, xưng tụng, sao lại sinh lòng đố kỵ”. Đường lối đố
kỵ doanh nhân tai hại cho dân cho nước ai cũng rõ.
4.
Minh triết “Chính phủ - chỉ là người trong quốc dân nắm chính quyền”. Đông
Kinh Nghĩa Thục nêu cao tinh thần dan tộc, nhấn mạnh cái ý thức coi quốc dân là
chủ thể của Nhà nước, của xã hội là nguồn lực của mọi hoạt động. Quốc dân có
quyền lợi và nghĩa vụ. Chính phủ, cảnh sát, luật pháp ... phải bảo vệ nhân dân,
bảo vệ mọi sinh hoạt và quyền lợi của nhân dân “phải nghĩ rằng dân là gốc của
nước, không thể bắt dân theo ý muốn của mình, chẳng phải chỉ không bạo ngược mà
thôi”. “Phàm những quyền lợi mà dân đáng được hưởng thì phải theo chừng mực mà
cho dân hưởng” “Quyền chính sự một nước không thể để một người nắm hết. “Quan
đáng tôn, đáng trọng, nhưng cũng chỉ là một người dân nắm chính quyền”. Nhiều
ý tưởng Minh triết như thế về sau này Hồ Chí Minh cũng thường nói đến.
Văn
thư chính thống của Đông Kinh Nghĩa Thục có nói đến hai chữ chủ nghĩa. Chủ
nghĩa mà Đông Kinh Nghĩa Thục nói tới có rất nhiều nội dung. Có thể lấy ngay ý
tứ và chữ nghĩa mà Đông Kinh Nghĩa Thục để lại để đặt tên cho nó là Chủ nghĩa Dân Bản Việt Nam. Chủ nghĩa Dân Bản Việt
Nam ấy thể hiện rõ trong tư tưởng: Khai dân trí – Chấn Hưng Dân
khí – Hậu Dân sinh. Vì một Tổ quốc Việt Nam độc lập, trường
tồn, vì một nhân dân Việt Nam có quyền, có lợi ích, có nghĩa vụ, có lòng yêu
nước, có dân trí, đạo đức, văn minh, có sản nghiệp, vì một thể chế chính trị
dân chủ, nhân văn, tiến bộ ... chính là thông điệp thiêng liêng cao cả mà Đông
Kinh Nghĩa Thục gửi đến cho chúng ta. Xin hãy nghe một câu nói của một nhân vật
chủ chốt của Đông Kinh Nghĩa Thục là cụ Nguyễn Hữu Cầu nói với môn sinh trước
lúc mất: “Nền tự do này, độc lập này mà đồng bào ta vừa
giành lại được chúng ta phải giữ gìn trong lĩnh vực tinh thần. Chính bằng
nghệ thuật và khoa học mà các dân tộc trường tồn. Chúng ta cần dõng dạc và tự
hào khẳng định mình là một quốc gia. Phải làm sao thông qua nghiên cứu ngôn ngữ
mà nghiên cứu dân tộc và làm sao in đậm trong tâm hồn tính cách hoàn toàn Việt
Nam. Ngày nay chúng ta quá Tây, quá Tàu, chúng ta là những người giáo điều “ba
rọi”, những người xã hội chủ nghĩa cậy quyền. Chúng ta phải chính là Việt”. (Trích
từ Une grande Figure De Lettrée của Nguyễn Văn Tố, báo Le Peuple 4- 8- 1946 Hà
Nội).
“Chúng ta phải chính là Việt”. Chính vì thế mà
với những gì đã làm được Đông Kinh Nghĩa Thục xứng đáng là trường học vĩ đại
của dân tộc trong thời kỳ hiện đại.
Cần
phải đào sâu vào tấng đá cứng may ra mới tìm được hạt kim cương. Phải công phu
nghiên cứu để khai thác cho đặng những giá trị văn hóa mà tiền nhân để lại. Và
nếu quên ông cha thì tâm hồn Việt cũng đã nhạt nhòa nhiều lắm. Xin cúi lạy Anh
linh các bậc tiền bối của Đông Kinh Nghĩa Thục.
* Bốn trụ cột của
Jacques Delors: học để làm người, học để làm việc, học để biết sống với người
khác, học suốt đời.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét