Để tưởng nhớ Trung Tá Phạm
Việt Châu, tác giả “Trăm Việt Trên Vùng Định Mệnh” người đã ra đi như một
thuyền trưởng ở lại với con tàu lịch sử tháng 4 năm 1975.
Người Việt chúng ta thường
cho rằng mọi hình thức văn hoá và con người phát xuất từ phương bắc của Việt
Nam, đặc biệt là từ vùjjjng Hoa Nam của Trung quốc, đều thuộc về Trung Hoa. Chúng
ta vẩn gọi chung người Quảng Đông, Phúc Kiến, Triều Châu, Hải Nam, Hẹ là ngươì
Tàu hay người Hoa, kể cả toàn bộ người dân sống ở những vùng này cách đây hàng
mấy ngàn năm cũng là người Tầu. Chữ “Tầu” hay “Hoa” hàm ý nghĩa họ là những
người khác chủng với dân tộc Việt. Họ là người Trung Hoa, hay ngườì Hán.
Quan điểm nầy trước hết sai
lầm về mặt lịch sử xuất phát của dân tộc và đất nước Việt, và sau đó tạo cho
Hoa Kiều sống tại Việt Nam một mặc cảm tâm lý chủng tộc khó hội nhập vào cộng
đồng dân tộc và tạo nhiều bất lợi cho nền kinh tế và văn hoá nước nhà. Bên cạnh
đó nước Trung Hoa to lớn về dân số lẫn đất đai không thể nào bỏ qua việc vận
dụng thành phần người Hoa sinh sống ở nước ngoài để biến họ thành công cụ phục
vụ cho chính quyền Hoa Lục.
Quan điểm sai lầm nầy của
người Việt đối với người Hoa phát xuất từ quá trình đồng hoá quá lâu của người
Hán đối với các dân tộc Bách Việt tại vùng Hoa Nam. Đồng thời nó phát xuất từ
những nhận định sai lầm về lịch sử của các triều đại trước đây.
Ngày nay những nổ lực khám
phá về lịch sử và địa lý miền Hoa Nam cổ đại, cũng như những nghiên cứu về
chủng tộc dựa trên DNA đã chiếu nhứng ánh sáng mới giúp chúng ta đặt lại một số
vấn đề cơ bản về chủng tộc và lịch sử. Những nhận định cơ bản nầy sẽ là nền
tảng lý luận giúp chúng ta có một cái nhìn hợp lý về sử học nước nhà, một chính
sách ngoại giao dựa vào văn hoá đồng chủng với các nước Đông Nam Á và các đảo
quốc ở Thái Bình Dương, và một sách lược văn hoá đối với người Hoa đang sinh
sống tại Việt Nam.
Địa Lý Bách Việt miền Hoa
Nam thời cổ đại
Sự hiện diện của văn minh
Bách Việt thời Thương Chu trong lịch sử Trung Hoa được đánh dấu bằng câu chuyện
sứ giả Việt Thường ở phương nam đem Bạch Trĩ và Ruà sống ngàn năm để cống dâng
cho vua nhà Chu. Lúc bấy giờ lãnh thổ của nhà Chu chỉ kéo dài tới sông Hoàng
Hà. Đến thời Chiến Quốc, khoảng 500 trước công nguyên, một số dân tộc ở Nam
Trung Hoa mới xuất hiện trong sử Trung Quốc. Nổi bật nhất là các nước Sở, nước
Ngô và nước Việt.
Khi Sở, Ngô, Việt bị Tần
Thủy Hoàng sát nhập vào Trung Hoa, và Lưu Bang đã diệt được Hạng Võ, cuối triều
đại nhà Tần và đầu thời kỳ Hán khi Lưu Bang mới lên ngôi (256-195 TCN) phía nam
nước Sở vẫn còn là chủ quyền của các dân tộc Bách Việt hoàn toàn độc lập và tự
chủ. (Xem bản đồ Trung Hoa thời Tần Thủy Hoàng Cao tổ).
Truyền thuyết xác định rằng
dân tộc Việt phát xuất từ Động Đình Hồ miền Lĩnh Nam. Sách Lĩnh nam Chích Quái
của Trần Thế Pháp ở thế kỷ 15 kể Truyện họ Hồng Bàng như sau:
“Đế Minh cháu ba đời họ
Viêm Đế Thần Nông sinh ra Đế Nghi, sau nhân đi tuần về phía Nam đến núi Ngũ
Lĩnh lấy được con gái bà Vụ Tiên rồi trở về, sinh ra Lộc Tục. Tục dung mạo đoan
chính, thông minh phúc hậu, Đế Minh rất lấy làm lạ, muốn cho nối ngôi mình.
Ngũ Lĩnh là năm rặng núi
lớn ở Nam Trung Hoa thuộc miền Lĩnh Nam. Miền Lĩnh nam đưọc sử tây phương viết
như sau “Lĩnh nam là vùng đất phia nam của rặng Ngũ Lĩnh gồm các rặng Đại Dũ
/Dữu Lĩnh, Kỵ Điền Lĩnh, Đô Bàng Lĩnh, Manh Chử Lĩnh và. Việt Thành Lĩnh. Vùng
nầy gồm các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Hồ Nam và Giang Tây của Trung Hoa hiện
đại. Vùng nầy do dân Bách Việt sinh sống và là tổ quốc của dân Nam Việt cổ đại”
(xem http://en.wikipedia.org/wiki/Jiangxi )
Tác giả Việt Sử Thông Luận
cho rằng, sau khi mất bản địa Thái Sơn (tỉnh Sơn Đông, bắc Trung Hoa), Con cháu
Thần Nông đã rút quân về Động Đình Hồ để xây dựng căn cứ địa văn hoá mới cho
dân Việt. Tướng của Đế Minh là Si Vưu ở lại giữ Thái Sơn và sau ba năm chiến
đấu chống tù trưởng của nòi Hán là Hiên Viên, quân của Si Vưu tan rã và từ đó,
dân Việt mất căn cứ địa văn hoá Thái Sơn. Hiên Viên chiếm đưọc thái Sơn lên
ngôi là Hoàng Đế. Ngày nay, dân tộc Việt chỉ còn câu ca dao: “Công cha như núi
Thái Sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra” để ghi dấu cái nôi văn hoá đầu
tiên của dân Việt.
Khi Lưu Bang cướp ngôi nhà
Tần ở phưong bắc, thì ở phương nam, Triệu Đà thống nhất được các nước Bách Việt
trong đó có cả nước Âu Lạc của tổ tiên chúng ta. Đó là cuộc thống nhất Bách
Việt lần thứ nhất. Nhà Triệu truyền ngôi được 4 đời thì bị nhà Hán xâm chiếm và
miền Lĩnh Nam bị bắc thuộc từ đó.
Đến thời kỳ Hai Bà Trưng,
40 năm sau công nguyên, Hai Bà đã thống nhất được 65 thành miền Lĩnh Nam. Sử
viết: “Các quận Nam Hải, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều hưởng ứng. Hai bà lấy
được 65 thành ở Lĩnh Nam. Trưng Trắc tự lập làm vua, xưng là Trưng Nữ Vương.”
Đây là cuộc thống nhất Bách Việt lần thứ hai.
Do đó, khi truy tầm nguồn
gốc Bách Việt của dân tộc Việt cần để ý các vần đề sau đây:
- Thời cổ đại đã xuất hiện
các dân tộc Bách Việt ở phía nam sống Dương Tử. Một số nước Việt giáp biên giới
với nhà Chu thường được đề cập đến trong sử sách Trung Hoa, đó là Sở, Việt (với
Viêt Vương Câu Tiển), Ngô Việt (với Ngô Phù Sai). Khi nhà Tần thống nhất thiên
hạ, các nước Việt trên bị sáp nhập vào nhà Tần. Còn các nước Việt khác như Âu
Việt, Mân Việt, Thái Việt, Điền Việt, Lạc Việt, Việt Thường và một số nước Việt
khác phiá nam vẫn còn giữ được nền độc lập.
- Cần xem khám phá mới của
Stephen Oppenheimer tác giả Eden in the East: The Drowned Continent of
Southeast Asia (Địa Đàng ở Phương Đông: Lục Địa Đông Nam Á Bị Chìm Dưới Đáy
Biển) để thấy nền văn minh Hoa Nam trãi dài xuống Đông Nam Á và các hải đảo ở
Thái Bình Dương. Các dân tộc như Mân Việt, Ngô Việt, Âu Việt gồm các bộ tộc,
Phúc Kiên, Triều Châu, Quảng Đông, Quảng Tây, Hẹ, Hải Nam, Đai Loan, Thái, Nam
Dưong và các thổ dân ở vủng đảo Thái Bình Dương đều có nguồn gốc Bách Việt.
- Do các dân tộc Bách Việt
đã sinh sống ở miền Hoa Nam trưóc khi vùng nầy bị Tần Hán xâm lược, dân Việt
phải là chủ nhân ông nền văn hoá thời bấy giờ. Các khám phá khảo cổ về văn minh
Hoa Nam trước thời Tần và Hán thuộc phải được coi là chỉ dấu của văn minh Việt,
chứ không thể là của Hán tộc. Người Việt cần phải coi đó là di sản của Việt tộc
và phải mạnh dạn giành lại chủ quyền văn hoá của mình.
Các nhà nhân chủng học Đài
Loan gần đây đã tìm cách phục hồi lại nguồn gốc Bách Việt của ngừời Đài Loan
như Phúc Kiến (Minnan, có lẽ là Mân Việt) và Hẹ (Hakka) là hai giống dân đông
nhất trên đảo.
Hiện nay có nhiều nghiên
cứu về DNA đã xác định quan hệ chủng tộc của các dân tộc Bách Việt. Cụ thể là
trong tác phẩm nghiên cứu nguồn gốc chủng tộc dựa vào gen di truyền (DNA) của
nhà nghiên cứu M. Liu của Mackay Memorial hospital và được viện Nghiên Cứu Sức
Khoẻ quốc gia của Đài Loan tài trợ, tác giả M. Liu chứng minh là các giống dân
miền Hoa Nam, Việt Nam, Thái Lan, Mã Lai, Nam Dương có liên hệ gen di truyên
khác biệt với chủng tộc Hán ở miền bắc.
Những khám mới về nhân chủng học của Đài
Loan đã chiếu ánh sáng vào lịch sử nòi giống Bách Việt. Chúng ta có thể xác
định rằng dân Bách Việt đã từng chiếm lĩnh miền Hoa Nam và dần dà bị Hán tộc
xâm lăng và đồng hoá. Chỉ có Việt Nam hiện nay tức là Âu Lạc, Lạc Việt, Việt
Thường và Đại Việt sau nầy, là còn giữ được văn hoá của Bách Việt.
Vấn đề người Tàu lập đế
nghiệp ở Đại Việt
Sau khi đã xác định được
địa lý văn hoá vùng Bách Việt chúng ta hãy trở về với một bí ẩn lịch sử của dân
tộc ta. Đó là từ nhà tiền Lý (Lý Nam Đế) đến nhà Tây Sơn, một số các các triều
vua lớn được sử sách của ta cho là có gốc từ Tàu.
Về Lý Nam Đế, sử gia Trần
Trọng Kim viết: “Lý Bôn, có người gọi là Lý Bí, vốn dòng dõi người Tàu. Tổ tiên
ở đời Tây Hán phải tránh loạn chạy sang Giao Châu, đến lúc bấy giờ là bảy đời,
thành ra người bản xứ.”
Về dòng dõi nhà Trần, Đại
Việt Sử Toàn Thư viết về gia phà của vua Trần Thái Tông như sau: “trước kia tổ
tiên vua là người đất Mân, (có ngườì nói là Quế Lâm), có người tên là Kinh, đến
ở hương Tức Mặc phủ Thiên Tường, sinh ra Hấp, Hấp sinh ra Lý, Lý sinh ra Thừa,
đời đời làm nghề đánh cá. Vua con của Thừa, mẹ họ Lê … (ĐVSKTT tr 159)
Về Hồ Quí Ly, Đại Việt Sử Ký
toàn Thư viết: “Quý Ly, tự là Lý Nguyên, tự suy tổ tiên là Hồ Hưng Dật vốn ở
Chiết Giang, đời Hậu Hán, thời Ngũ Quí sang làm thái thú Diễn Châu.” (ĐVSKTT tr
293).
Về nhà Tây Sơn, Việt nam Sử
Lược của Trần Trọng Kim viết: “Nguyên tổ bốn đời của Nguyễn Nhạc là họ Hồ, cùng
một tổ với Hồ Quí Ly ngày trước…” (VNSL Trần trọng Kim tr.. 144).
Như thế thì có ít nhất là
bốn triều đại như Tiền Lý, Trần, Hồ, Tây Sơn đều là người gốc ở phương bắc và
xuống phương nam lập nên đế nghiệp.
Phải chăng những vị lập nên
các triều đại nầy là người Hán? Để giải đáp bài toán lịch sử nầy chúng ta phải
xét lại hiện tượng phục hoạt của Việt tính hay ý thức Việt ở trong các
triều đại nói trên.
SỰ PHỤC HOẠT CỦA VIỆT TÍNH
TRONG THỜI KỲ BẮC THUỘC
Từ khi cuộc kháng chiến
chống quân Hán xâm lược của Lữ Gia và Triệu Dương Vưong thất bại (111 TCN) đất
Nam Việt bị nhà Hán chiếm đóng và danh xưng Việt đã bị linh lạc bởi quá trình
đô hộ và đồng hoá. Từ thời kỳ Hán thuộc trở đi, danh xưng Việt đã biến mất
trong các sách sử của Trung Quốc, và được thay thế bằng hai chữ An nam và Giao
Chỉ. Ngay cả thời kỳ Hai Bà Trưng danh xưng Việt cũng chưa được phục hoạt.
Khoảng cách thời gian giữa
Lữ Gia và Lý Bôn là hơn 650 năm. Tại sao khi Lý Bôn (544) lên ngôi ông lấy đế
hiệu là Nam Việt Đế? Ý thức Việt trong đế hiệu đó ở đâu ra? Phải chăng suốt 650
năm bị Hán hoá, một tầng lớp nhân dân Bách Việt từ miền Lĩnh Nam rút về vùng
đất Âu Lạc, Việt Thường vẫn giữ vững ý thức Việt, lưu giữ và bảo tồn nó qua
không gian và thời gian.
Lịch sử chiếm đóng miền
Lĩnh Nam của nhà Hán đi liền với những nổi dậy của dân tộc Việt và những cuộc
đàn áp khốc liệt. Suốt hai ngàn năm, địa danh Lĩnh Nam biểu tượng cho tinh thần
chống lại Hán hoá. Ngưòi dân miền nầy đưọc gọi là “Lục Lương” hay “Cường Lương”
nghĩa là dân cứng cổ. (theo Lê Văn Siêu và Lý Đông A). Người đọc sử cần hiểu ý
nghĩa về xã hội loạn lạc thời Hán ở vùng Lĩnh Nam. Khi sử gia Trần Trọng Kim
viết: “ Tổ tiên (Lý Bôn) ở đời Tây Hán phải tránh loạn chạy sang Giao Châu.”
người đọc sử phải hiểu rằng “Loạn” là những cuộc nổi dậy của dân bản địa nổi
lên đánh đuổi chính quyền đô hộ phưong bắc.
Đây là lý do hợp lý nhất để
giải thích sự kiện dòng họ Lý Bôn đã đi về phương Nam. Khi đã định cư ở Âu Lạc,
dòng họ nầy vẫn ấp ủ tinh thần Phục Việt từ thế hệ nầy qua thế hệ khác. Họ chờ
đợi để được thấy một ngày nào đó danh xưng Việt được tái hiện trong lịch sử.
Dòng họ Lý Bôn và những dòng họ Bách Việt khác đã đã truyền lại cho con cháu
mối quyết tâm nuôi dưỡng tinh thần quật khởi đợi ngày giành lại non sông.
Chỉ bằng sự xác định được
quan hệ giữa Bách Việt và Lý Bôn chúng ta mới hiểu được tại sao ý thức Việt đã
được phục hoạt trong phong trào độc lập của nhà Tiền Lý.. Nếu nói “Lý Bôn là
dòng dõi người Tàu” như sử gia Trần Trọng Kim viết, thì e rằng chúng ta không
giải thích được hiện tượng phục hoạt danh xưng Việt ở thời kỳ đó.
Đặc biệt là thời kỳ Lý Trần
là thời kỳ cực thịnh của văn hoá Việt. Câu hỏi có thể đặt ra là nếu họ Trần có
gốc Tàu thì tại sao họ Trần phải phục hưng văn hoá Việt?
Hay như trong hịch Tây Sơn
của đức Quang Trung Hoàng đế kêu gọi : “đánh cho được để tóc dài, đánh cho được
nhuộm răng đen, đánh cho nó chích luận bất phản, đánh cho nó phiến giáp bất
hoàn, đánh cho sử tri Nam Quốc anh hùng chi hữu chủ”. Nếu cho rằng Quang Trung
mang dòng máu Tàu thì tại sao ông đòi đánh Tàu để dân tộc Việt được giữ gìn tục
để tóc dài, ăn trầu, nhuộm răng đen, để cho bọn Tàu biết là nước Nam nầy là có
chủ. Và khi đã diệt được quân xâm lược ngài đã yêu sách đòi nhà Thanh phải trả
lại miền Lưỡng Quảng, tức là vùng Lĩnh nam thời cổ đại?
Chỉ có một câu trả lời hữu
lý duy nhất là ông tổ của các dòng họ như Lý Bôn, Trần Thừa, Hồ Quí Ly và nhà
Tây Sơn là những người thuộc giòng giống Bách Việt. Những dòng tộc nầy đã thất
bại trong những lần nổi dậy chống quân xâm lược và đã lui về phương nam tìm đất
sống. Họ đã hoà nhập vào văn hoá Âu Lạc, Lạc Việt và Việt Thường để trở thành
người dân địa phương. Họ đã cùng với các dòng tộc Việt địa phương nuôi duỡng ý
chí Phục Việt âm thầm dưới đáy tầng quốc dân từ đời nầy qua đời khác để lấy ý
thức dân tộc làm sức mạnh kháng cự tham vọng của Hán tộc để bảo tồn văn hoá và
giành lại độc lập cho dân tộc Việt.
Bách Việt trong Lòng Đại
Việt
Nói tóm lại, lịch sử tồn
tục và tiến hoá của dân tộc Việt là hành trình lui dần về phương nam trước sự
lớn mạnh của Hán tộc để bảo tồn nòi giống. Từ thời cổ đại, dân tộc Việt đã mất
Thái Sơn là cái nôi văn hoá đầu tiên. Sau khi Thái Sơn bị Hoàng Đế xâm chiếm,
con cháu Thần Nông đã rút về Đông Đình Hồ vùng Lĩnh Nam để xây dựng lại căn cứ
địa văn hoá lần thứ hai. Khi Lữ Gia thất trận, các dân tộc Bách Việt thuộc nước
Nam Việt đã chạy vê Phong Châu ở phương nam hội nhập vào Âu Lạc để xây dựng lại
căn cứ địa văn hoá thứ ba. (Xem Việt Sử thông Luật của LĐA, và Dịch Kinh Linh
Thể của Kim Định)
Đây là lý do khi Hai Bà
Trưng khởi nghĩa các dân tộc Bách Việt thuộc 65 thành ở Lĩnh nam đã hưởng ứng.
Địa lý chính trị thời kỳ Hai Bà chính là vùng Lĩnh Nam và nước Nam Việt cũ. Mặc
dầu cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng thất bại, công cuộc thống nhất Bách Việt
của Hai Bà đã tái hợp Bách Việt và kéo các dân tộc Bách Việt ngồi lại với nhau.
Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà đã cho các dân tộc Bách Việt và các gia đình vọng
tộc ở miền Hoa Nam niềm hy vọng phục hoạt dân tộc Việt. Vùng đất Âu Lạc với
những địa linh như Phong Châu, Mê Linh và những nhân kiệt như Hai Bà Trưng và
Bà Triệu, và những danh tướng trong đoàn quân kháng chiến, đã nêu tấm gương yêu
nước và là niềm hy vọng cho nòi giống Bách Việt.
Sau thời kỳ Hai Bà Trưng
các dân tộc Bách Việt với dân tộc Âu Lạc đã hội nhập lại với nhau. Bên cạnh đó
sự xuất hiện của Phật Giáo như là một hệ thống triết học và văn hoá trong thời
kỳ nầy đã tạo nên một sức mạnh văn hoá mới được dân Việt nhanh chóng tiếp thu,
và đã giúp cho dân Việt có chổ dựa tinh thần và vật chất. Về tinh thần, Phật
Giáo hoà nhập vào văn hoá dân tộc để chống lại quá trình Hán hoá. Về vật chất,
chùa chiền trở thành những trung tâm nối kết và vận động lịch sử từ miền Ngũ
Lĩnh xuống đến tận Việt Thường. Luy Lâu (Bắc Ninh) trở thành trung tâm Phật
Giáo miền Hoa Nam.
Các tổ sư Mâu Bác, Huệ Năng
đưa Phật giáo tới đỉnh cao của thiền học. Võ thuật cũng được phát triển mạnh mẽ
vùng Lĩnh Nam trong thời kỳ nầy. Do đó, chúng ta thấy bên cạnh những phong trào
kháng chiến thời Hán thuộc đều có bóng dáng của những cao tăng. Và trong thời
kỳ độc lập, các thiền sư như Ngô Chân Lưu, Khuông Việt và Vạn Hạnh đã đóng một
vai trò tích cực trong việc phục hồi văn hoá dân tộc và xây dựng đất
nước.
Nhờ những định chế văn hoá
mới dưới hình thức tôn giáo nầy các dân tộc Bách Việt ở Âu Lạc đã tụ họp với
nhau, bảo lưu được văn hoá và lịch sử dân tộc, và nuôi dưỡng được ý chí phục
Việt.
Chiến Lược Phục Hoạt Văn
Hoá Bách Việt
Sau gần một nghìn năm bị
nòi Hán đô hộ, hai triều đại Lý-Trần, khởi đi từ Lý Nam Đế, đã phục hưng và
phục hoạt lại nền độc lập và văn hóa Việt, xây dựng một nước Đại Việt hùng mạnh
suốt gần 500 năm.
Ngày nay đất nước ta đang
bước vào thế kỷ thứ 21. Sự lớn mạnh của Trung Hoa ngày nay hiện đang là mối đe
doạ cho sự tồn vong của dân tộc. Vấn đề biên giới, lãnh hải, lãnh thổ giữa hai
nước vẩn chưa ổn định và sẽ là mầm mống mâu thuần trong tương lai và cho thế hệ
mai sau. Vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa vẫn là mối ưu tư hàng đầu của mọi người
Việt còn thao thức với đất nước.
Trong bối cảnh đó, xác định
được văn hoá Bách Việt và quan hệ chủng tộc giữa người Việt và các dân tộc miền
Hoa Nam là tiền đề cho một sức mạnh tinh thần để đối phó với nước láng giềng
phương bắc. Để khai quật được sức mạnh tinh thần nầy, Người Việt cần có một suy
nghĩ mới và một chính sách văn hoá mới đối với các nước đồng chủng trong vùng
và đối với Hoa Kiều đang định cư tại Việt Nam.
Cái cơ sở nền tảng để khai
quật được sức mạnh tinh thần Đại Bách Việt hiện đại là ý thức rằng dân tộc Việt
ngày nay là dân tộc thừa kế chân truyền di sản văn hoá Bách Việt ngày xưa. Và
di sản văn hoá và văn minh Bách Việt cổ xưa đã được lưu giữ và bảo tồn trong
trong quá trình hình thành nước Đại Việt và Việt Nam hiện đại.
Với ý thức đó, người Việt
hiện đại phải có cái nhìn mới về lịch sử nước nhà, phải mạnh dạn xác định sự
đóng góp của các dòng họ Bách Việt trong quá trình hình thành lịch sử và văn
hoá nước Đại Việt và Việt Nam hiện đại. Đồng thời chúng ta phải hãnh diện xác
nhận dân tộc Việt hiện đại là dân tộc kế thừa và là chủ nhân ông di sản văn hoá
Đại Bách Việt. Chúng ta phải đóng vai trò chủ động làm sống lại lịch sử và văn
hoá của các dân tộc đồng chủng ở trong vùng và Hoa kiều trong nước.
Từ cơ sở đó, người viết đề
nghị ba sứ mạng văn hoá như sau:
- Thứ nhất, cần phải có một
nghiên cứu sử chính thức và học trình sử để chính thống hoá giá trị văn hoá
Bách Việt trong sự hình thành văn hoá Việt Nam ngày nay.
- Thứ hai, phái có một
chính sách hợp tác văn hoá đối với các nước đồng chủng ở Á Châu, đặc biệt là
vùng Đông nam Á...
- Thứ ba, phải có một quan
niệm mới đối với người Hoa hiện đang ở Việt Nam. Sự xác định tính đồng chủng
của các dân tộc Hoa Nam và Đông nam Á có chung huyết thống Bách Việt như các
nước Đông Nam Á, các dân tộc miền Hoa Nam và Đài Loan và sự tái kiến thiết văn
minh Bách Việt, sẽ là đối lực thích hợp đối với tham vọng về lãnh thổ, lãnh địa
và văn hoá của Trung Hoa.
Từ nhận định đó, chúng ta
phải có một chính sách ngoại giao mới đối với các nước Đông Nam Á. ASEAN sẽ có
một vai trò văn hoá mới ngoài vai trò kinh tế, chính trị và quân sự. Ý thức
đồng chủng sẽ giúp cho ASEAN mở rộng vòng tay để đón Đài loan và các đảo quốc ở
Thái Bình Dương nhằm mở rộng không gian Bách Việt mới và để gây sức mạnh tinh
thần trong liên minh các nước ở vùng Biển Đông.
Vấn đề quan trọng hơn là
khi đã nhận diện được tính đồng chủng Bách Việt, người Việt trong nước và hải
ngoại phải có một quan niệm mới và sách lược mới về Hoa Kiều ở Việt Nam.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét