HÀ VĂN THÙY
Kinh
Thi là tuyển tập những bài dân ca và ca dao đẹp nhất, hay nhất xuất hiện trong
khoảng thời gian từ thế kỷ thứ VI TCN trở về trước trên lưu vực Hoàng Hà và
Dương Tử. Theo Tư Mã Thiên viết trong Sử ký thì ban đầu có tới 3000 bài, Khổng Tử san định đã bỏ đi 9 phần 10, chỉ giữ lại có 311 bài. Ðấy là tác phẩm văn học daan gian được sưu tập sớm nhất, có ảnh hưởng sâu rộng đến tâm hồn và trí tuệ phương Ðông, quan trọng
đến mức Khổng Tử nói bất học thi vô dĩ ngôn! (Không học Thi biết gì mà nói).
Thời nhà Tần nó cũng bị đốt nhưng sau đó được khôi phục và xếp vào Ngũ kinh.
Hàng nghìn năm nay, kinh Thi mặc nhiên được
coi như sản phẩm đặc hữu của Hán tộc, không có ai nghi ngờ hay bàn cãi. Vì vậy,
ba chục năm trước, khi học giả Lương Kim Ðịnh cho rằng Kinh Thi là quyển kinh điển của Việt tộc (1) đã
gây nên sự phản ứng của không ít người. Dễ hiểu thôi, thay đổi một thói quen
từng hằn vào cân não hàng nghìn năm đâu phải là việc một sớm một
chiều!
Ðiều dễ nhận ra là
kinh Thi đã bị Hán nho rối Tống nho đánh tráo một cách trơ trẽn: Những sáng tác
dân gian sinh ra nơi ruộng lúa nương dâu bị biến thành sản phẩm cung đình, một
thứ văn chương xu phụ chuyên ca tụng ông vua này ông vua khác cùng bà hậu phi
nào đó! Chính ở đây, tầng lớp Hán nho đã ăn cắp tác quyền của dân gian trao cho
vương triều. Ðiều này dễ thấy. Còn cách đánh tráo, ăn cắp tác quyền khác tinh
vi hơn thì khó nhận ra. Khó về học thuật và càng khó hơn trong tâm lý: đứng
trước nền văn hóa khổng lồ của người láng giềng phương bắc, chúng ta cảm thấy
mình nhỏ bé đi, đến mức chỉ còn là cậu học trò ngu ngơ trước ông thầy vĩ đại!
Tâm lý ấy khiến chúng ta hèn đi, không dám nghĩ đến cái điều bị coi là hoang
tưởng thậm chí phạm thượng: kinh Thi là quyển kinh điển của Việt tộc!
Ðể phân định điều này,
ta phải xét từ cội nguồn: Tìm về lịch sử hình thành kinh Thi. Vào thập niên 70 của thế kỷ trước tồn tại 2 giả thuyết về cội nguồn dân tộc Việt. Một cho rằng, tổ tiên người Việt từ cao nguyên Thiên Sơn di cư vào đất Trung Hoa sau đó bị người Hán chèn ép nên tràn xuống Việt Nam tiêu diệt người bản địa, lập ra nước Văn Lang. Giả thuyết thứ hai cho rằng tổ tiên người Việt đã từ Mã Lai đi lên.
Ngày nay, với những thành tựu mới nhất của di
truyền học, lần đầu tiên chúng ta có bản viết chính xác về tiền sử Đông Á:
Người hiện đại Homo Sapiens đã từ châu Phi lên Trung Đông rồi từ đây theo bờ
biển Nam Á đến Việt Nam khoảng 60-70000 năm trước. Dừng lại đây trong khoảng
10.000 năm, hai đại chủng Mongoloid và Australoid hoà huyết tạo ra những chủng
lai. Những chủng người này sinh sôi nảy nở lan khắp lục địa, hải đảo Đông Nam Á
rồi sang châu Úc. Khoảng 40.000 năm trước, khi băng hà tan, người từ Đông Nam Á
đi lên phía bắc, chiếm lĩnh lục địa Trung Hoa rồi sau đó vượt qua eo Bering tới
châu Mỹ.
Cho đến thiên niên kỷ
thứ IV TCN, người Đông Nam Á mà sau này sử sách gọi là Bách Việt sống khắp
duyên hải Đông Á với nhân số chiếm khoảng 54% nhân loại. Trong đó người Lạc
Việt có khoảng 15-20% và giữ vai trò lãnh đạo về xã hội và ngôn ngữ. Người Bách
Việt Đông Nam Á kiến tạo nền văn minh nông nghiệp tiến bộ nhất thế giới: Nghề
trồng lúa phát triển với giống lúa được tuyển chọn tốt, biết cày bằng trâu bò,
đắp bờ giữ nước. Nghề chăn nuôi gia súc trở thành nghề sản xuất chính, biết
nuôi tằm dệt lụa. Nghề đúc đồng ra đời. Khoa thiên văn quan sát tượng trời
tượng đất dự báo thời tiết ở trình độ cao. Kiến thức âm dương ngũ hành, dịch số
được tích luỹ. Từ kết nút để ghi nhớ đã có chữ Khoa đẩu. Là cộng đồng nông
nghiệp nên sinh hoạt văn hoá phát triển với ca dao, dân ca, đồng dao, nhạc múa,
trái gái luyến ái tự nhiên theo tục dã hợp…
Cũng trong khoảng thời
gian trên, có phần chắc là muộn hơn, một số nhóm người Mongoloid từ Đông Nam Á
đi lên miền đồng cỏ phía Tây Bắc Trung Hoa, sinh sống bằng du mục, tách biệt
với khối dân cư còn lại.
Khoảng 2600 năm TCN,
những bộ lạc du mục thiểu số này vượt Hoàng Hà chiếm đất của dân Bách Việt nông
nghiệp, lập ra thời đại Hoàng Đế. (2)
Tuy chiến thắng về
quân sự nhưng do số người ít và văn hoá kém phát triển nên kẻ chiến thắng bị
đồng hoá cả về di truyền cả về văn hoá. Người Mongoloid vốn có nước da sáng hơn
người Australod lại sống ở phía bắc từ lâu nên nước da càng trắng hơn. Vì vậy
kẻ thống trị gọi người bản địa là lê dân – dân đen - để phân biệt.
Vào đất Bách Việt,
người Hán Mông Cổ choáng ngợp trước số dân đông đúc và kinh tế sung túc
nên lập tức bỏ nghề du mục, chuyển sang làm quan, làm công nghiệp, nhà buôn -
những công việc đặc quyền của kẻ thống trị.
Không lâu sau, chỉ một
vài trăm năm, toàn bộ người Hán Mông Cổ xuống Trung Nguyên bị hoà huyết với dân
đen bản địa thành chủng người mới, khoa học gọi là Mongoloid phương Nam hay nhóm
loại hình Đông Nam Á. Trong quá trình hoà huyết thì văn hoá cũng hoà
đồng: Trước hết là tiếng nói. Lớp con lai dùng trộn trạo từ vựng của bố của mẹ.
Với thời gian, hai hệ tiếng nói bổ sung cho nhau, hoà vào nhau tạo nên tiếng
nói chung phong phú của lớp dân mới. Tuy nhiên, tiếng nói của một vùng, một
quốc gia bao giờ cũng theo cách nói của trung tâm, của thủ đô. Người Hán Mông
tập trung ở đô thị nên trong khi học thêm từ vựng Việt thì họ cố giữ cách
nói-văn phạm truyền thống Hán. Dần dần toàn bộ dân cư chuyển
sang dùng cách nói thống nhất như các đô thị, kết quả là trong giao tiếp cùng
nói theo cách của người Hán. Đồng thời trong quá trình chung sống, các phong
tục tập quán của hai tộc người ban đầu cũng hoà vào nhau.
Người Hán Mông Cổ bỏ
vật tổ truyền thống của mình là con cọp trắng để chuyển sang thờ vật tổ của dân
bách Việt là con cá sấu được thần hoá thành con rồng. Người Hán Mông Cổ cũng
nhận những ông tổ xa xưa của người Việt là Toại Nhân, Phục Hy, Thần Nông làm tổ
của mình (3). Điều này không có gì sai trái mà hợp lý vì do hoà huyết nên về
huyết thống, những thế hệ người Hán từ sau Hoàng Đế như Đế Cốc, Đế Chí đều là
con cháu của Thần Nông. Họ có toàn quyền nhận tổ tiên cũng như văn hoá nông
nghiệp làm của mình, bình đẳng với những người Bách Việt mới thuộc chủng
Mongoloid phương Nam.
Từ lịch sử đó, chúng
ta thử tìm hiểu hoàn cảnh ra đời của kinh Thi.
Từ thời vua Vũ nhà Hạ
(2205-1783 TCN), các nước chư hầu dâng cống vật cho thiên tử thì trong phương
vật, có cả những câu ca của dân quê nơi thôn dã. Thiên tử xem những câu ca ấy
để hiểu thuần phong mỹ tục trong thiên hạ, để đánh giá sự cai trị của vua chư
hầu. Cái lễ cống tồn tại dài dài mãi sau này nhưng việc cống những câu ca nơi
thôn cùng xóm vắng chỉ tồn tại đến thời nhà Chu (1134-247 TCN).
Nhưng thử hỏi thiên hạ
Trung Hoa thời Xuân Thu là ai? Lúc này đã 2000 năm qua đi từ trận Trác
Lộc Hoàng Đế chiến Si Vưu. Trong cương thổ nhà Chu rộng khoảng
115.000 km2 với 15 tiểu quốc, hai chủng tộc chính ban đầu là Hán Mông Cổ và
Bách Việt đã hoà huyết thành chủng mới Mongoloid phương Nam. Cùng với máu
huyết, giữa người Việt và người Hán cũng có sự hoà đồng về văn hoá. Trong cộng
đồng Hán tộc mới này, lực lượng đông đảo nhất là lê dân, là dân đen tức những
người gốc Tam Miêu. Chính do số đông áp đảo, chính xuất phát từ nền văn hoá cao
hơn nên những người gốc Bách Việt giữ vai trò chủ đạo trong nền văn hoá.
Đặc điểm nổi bật của
dân Miêu Việt là sống hồn nhiên vui vẻ, ưa ca múa, khá thoải mái trong chuyện
luyến ái gái trai. Kinh Thư ghi nhận, khi vì bất bình mà người Miêu Việt nổi
dậy, dẹp không được, vua Thuấn phải sai ông Quỳ dùng ca múa phủ dụ mới yên. Từ
kinh nghiệm trên, các ông vua hiền thời cổ ở Trung Quốc đã phần nào dựa vào những
lời ca cất lên nơi thôn cùng xóm vắng mà biết nguyện vọng của dân để kịp thời
điều chỉnh chính sách của mình. Chính những lời ca dân dã ấy được thu thập lưu
giữ trong tàng thư của nhà vua. Và từ những thư tịch trong cung vua nhà Chu,
Khổng tử (551- 479 TCN) đã đem ra san định thành kinh Thi.
Những nguyên nhân trên
đã tạo nên tinh thần nông nghiệp Việt tộc bàng bạc trong kinh Thi ngay từ bài
đầu tiên và quan trọng nhất: Quan thư
Quan
quan thư cưu
Tại hà tri châu
Yểu điệu thục nữ
Bài ca là hình ảnh một
bãi nổi trên sông với những loài chim nước cặp đôi cùng người trai người gái
tình tự phản ánh cuộc sống hồn nhiên của dân cư nông nghiệp miền sông
nước. Hảo cầu là từ đa nghĩa. Tản Ðà dịch là tốt đôi vợ chồng nhưng theo Kim
Ðịnh, một bản Latinh lại dịch là giao cấu (copulary). Dịch như vậy mới phản ánh
đúng cái thần câu ca: quan hệ tính giao tự nhiên như vậy chỉ có ở văn hóa phồn
thực của Viêm Việt nông nghiệp. Dịch như Tản Ðà là dịch theo quan điểm thanh
giáo mà Hán nho rồi Tống nho áp đặt để xuyên tạc kinh Thi.
Một bài khác cũng mang
cái phong vị trữ tình như vậy, bài Hán Quảng :
Trên
bờ sông Hán ai ơi,
Có
cô con gái khó ai mơ màng
Mênh mông sông Hán sông Giang
Lặn sang chẳng được, bè sang khó lòng.
Sông Hán là chi
lưu của sông Dương Tử, miền đất châu Kinh, châu Dương, châu Hoài... địa bàn cư
trú lâu đời của người Bách Việt, một bằng chứng cho thấy người Việt là chủ nhân
những câu ca trên. Một bài khác Thảo trùng: người con gái
lên núi hái rau, nhìn thấy châu chấu theo nhau bay nhảy liền mong tưởng đến
chồng trở về: Diệc ký kiến chỉ, diệc ký cấu chỉ, ngã tâm đắc di.
Tản Ðà dịch: bao giờ cho thấy mặt chàng,
Cho ta vui vẻ nở nang tấm lòng.
Dịch vậy là quá khéo,
bởi chữ cấu có nghĩa là giao hoan. Nở nang tấm lòng vừa có
nghĩa vui mừng lại có nghĩa thai nghén sinh nở!
Bài Dã hữu tử
huân (con nai chết trên đồng) có câu:
Có
cô con gái xuân tình,
Cậu giai tốt đẹp dỗ dành muốn ve
cũng là bằng chứng của lối sống phồn thực Viêm
Việt. Cuộc sống phồn thực luyến ái tự nhiên là đặc điểm của văn hóa Việt tộc.
Ta thấy điều này trong sinh hoạt hội mùa xuân: đến hội xuân, tất cả trai gái
làng này đến hát đối với trai gái làng bên cạnh (là hai bộ lạc). Trai chưa vợ
gái chưa chồng xem mặt nhau rồi chọn lựa trong lúc hát hò. Tan đám hát, họ chia
nhau từng đôi, tặng nhau kỷ vật rồi dẫn nhau vào những lùm cây bãi cỏ giao
hoan, gọi là dã hợp. Không ai chê bai ngăn cản việc này. Những đứa trẻ sinh ra
trong cuộc hôn phối tự nhiên ấy là điềm may. Chỉ khi các thánh hiền phương Bắc
xuất hiện mới coi là xướng ca vô loại, chê là dâm
bôn, ra sức cấm đoán rồi vỗ ngực ca ngợi công việc ấy của mình
là cải hóa phong tục của man di! Nếu trong cuộc đời thực, Hán
nho, Tống nho tiếp tay cho vương triều phong kiến xóa bỏ văn hóa Việt tộc thì
trên phương diện chữ nghĩa, họ cũng một mặt ăn cắp tác quyền những dân ca và ca
dao Việt trao cho vua chúa, mặt khác chú giải Thi theo hướng có lợi cho vương
triều, cổ xúy chủ nghĩa thanh giáo. Kim Ðịnh phát hiện ra mưu đồ này nhưng có
lẽ ông đã quá lời khi nói: "Có thể xẩy ra những cuộc tráo trộn do chính
Viêm tộc làm ra: nó ở tại đem vào những bài ca của dân gian một ít lời để lái
một bài thơ phương Nam ra vẻ của phương Bắc, hoặc để nguyên cả một bài hay một
chuỗi bài như Châu Nam, Thiệu Nam mà đặt vào vùng núi Kỳ ở Thiểm Tây để cho
người phương Bắc dễ chấp nhận." (VLTN 135) Có lẽ không phải vậy. Người dân
quê hồn hậu không nghĩ rằng những câu ca nơi đồng nội của mình sẽ thành kinh
điển nên phải tự sửa mình đi cho vừa khẩu vị kẻ xâm chiếm thống trị. Họ chỉ tự
nhiên nhi nhiên hát lên lời hát của lòng mình mà vì nó hay nên vương triều
không thể bỏ phải lượm lặt đem về. Nhưng rồi việc biên tập, nhuận sắc, chú giải
diễn ra, nội dung nhiều bài thay đổi đồng thời tác quyền bị chuyển cho người
khác. Việc làm này của Hán nho là có ý thức. Tuy nhiên, cái việc vụng trộm ấy
cũng không hoàn toàn vô tang mà đã để lại dấu vết. Không những không thể xóa
hết tinh thần Viêm Việt bàng bạc trong khắp tập kinh mà ở nhiều bài còn lộ rõ
dấu vết trong cách đặt câu, trong cú pháp. Ta biết, so với tiếng Việt, cú pháp
chữ Hán nói ngược: Việt nói trong lòng là trung tâm thì Hán
nói tâm trung. Nhưng trong kinh Thi, có hiện tượng rất lạ
là nhiều câu vẫn giữ cấu trúc ngữ pháp Việt:
Túc
túc thỏ ta, thi vu trung lâm
(Thỏ ta: Lưới thỏ mà căng giữa rừng.)
Ðúng ra giữa rừng viết theo
cú pháp chữ Hán phải là lâm trung mà ở đây lại là trung
lâm. Hay
Hước lãng tiếu ngạo, trung tâm thị
niệu
(Chung
phong: Cũng là bỡn cợt mà thôi,
chỉ
thêm đau ruột cho người xót thương).
Có thể kể ra nhiều nữa:
- Hồ vi hồ trung lộ (Thức vi: trong sương)
- Trung tâm rạng rạng (Nhị tử thừa chu: trong lòng áy náy )
- Trung tâm hữu vi (Cốc phong: trong lòng băn khoăn)
- Di vu trung cốc (Cát đàm: trong hang)
- Trung tâm dao dao (thử ly: trong lòng nao nao)
- Tại bỉ trung hà (Bách châu: giữa dòng
sông)
- Trung cấu chi ngôn (Tường hữu từ: lời nói trong buồng kín )
Những "hòn sạn" chữ nghĩa kia nói
lên điều gì? Phải chăng là sự vô tình? Phải chăng là những người biên tập,
san định, chú giải vì "dốt" nên không thấy cái "sai" ấy?
Mấy nghìn năm nay chưa ai giải thích điều này. Trong bài Dẫn nhập in
ở đầu cuốn kinh Thi, ông Trần Văn Chánh nhận xét: "Trong
kinh Thi, chữ "trung" (ở trong, ở giữa) thường đặt sau danh từ, thay
vì ngược lại, so với văn ngôn các đời Hán, Ðường... về sau."(4) Ông
cho rằng đó là một trong những nguyên tắc, những mô hình cấu trúc cần nhận biết
khi đọc Thi. Ðiều này đã hẳn nhưng nó cũng gợi lên thắc mắc: vì sao lại có hiện
tượng khác thường đó? Và vì sao qua hàng nghìn năm phấn đấu xa đồng
quỹ, thư đồng văn, qua biết bao lần nhuận sắc, chú giải, những đại nho
của muôn đời không sửa chữa, không lượm đi những "hạt sạn"? Ðúng là
chữ nghĩa thời kinh Thi chưa ổn định và có khác thời Hán thời Ðường. Nhưng thử
hỏi, nguyên nhân của sự không ổn định ấy là gì? Theo thiển ý, ở chính trong
lịch sử hình thành ngôn ngữ Trung Hoa. Ngôn ngữ thời kinh Thi nằm
trên đường chuyển hóa từ cách nói của người Việt sang cách nói của người Hán.
Cách nói của người Hán cuối cùng đã thắng nhưng trong ca dao, dân ca vẫn tồn
tại cách nói Việt phản ánh tư duy Việt. Khi ca dao dân ca của người Việt được
đưa vào kinh điển, người san định tuy đã nhuận sắc sửa đổi nhưng không thể sửa
chữa tất cả vì buộc phải tôn trọng vần điệu của thơ. Trong 2700 bài thơ bị loại
bỏ, ai biết có bao nhiêu bài của Việt tộc? Những bài còn lại là những bài không
thể bỏ. Những cấu trúc ngữ pháp không bình thường trong các bài đó cũng là không
thể sửa đổi! Cái không thể sửa đổi đã trở thành những
"hòn sạn" trong ngôn ngữ của Thi. Nhưng chính những "hòn
sạn" tưởng như ngẫu nhiên này lại là những hóa thạch ngôn ngữ chứng
minh về sự đóng góp của tiếng Việt vào kinh Thi, vào ngôn ngữ Trung Hoa! Không
chỉ trong Thi, cách nói Việt này cũng để lại dấu ấn trong một số tên gọi: Nữ
Oa, Thần Nông, Ðế Nghiêu, Ðế Thuấn, Ðế Chí rồi Ðế Minh, Ðế Lai... Cách nói đó
không thể phủ nhận được là cách nói Việt. Có lẽ cũng do những nguyên nhân lịch
sử bất khả kháng mà người ta không thể sửa thành Nông Thần, Nghiêu đế... theo
cách nói của người Hán!
Nói như ông Kim Ðịnh Kinh thi là
quyển kinh điển của Việt tộc e rằng quá lời. Bởi lẽ không hiểu những
bài bị loại bỏ ra sao, còn căn cứ vào những bài hiện có, ta thấy trong đó nhiều
bài mang đặc tính chung của con người, cái chất uy-manh chả
của riêng ai, thật khó tách bạch. Trong đó bên cạnh những bài đậm sắc thái Việt
lại có những bài mang tố chất Hán tộc như bài Thạc nhân:
Người đâu dong dỏng như ai,
Trong mặc áo gấm phủ ngoài áo lương.
Ấy người con gái họ Khương,
Em ông thái tử cưới sang vua Vệ hầu.
Còn như bề giượng là đâu?
Có Ðàm công với Hình hầu hai vua.
Từ phục sức đến nhân thân cho thấy đó là người
đàn bà quý tộc. Nhân vật này không phải đối tượng của văn chương dân gian.
Nhiều khả năng đây là sản phẩm của nhà thơ cung đình nào đó mượn phong cách dân
gian làm thơ phục vụ vương quyền. Không phải trong tầng lớp vương giả không có
người Việt nhưng người đàn bà này đích thực là người Hán:
Tay ai như cái cỏ gianh non,
Da như mỡ đọng, cổ như con nhậy dài,
Hạt bầu thời như thể răng ai,
Ðầu trăn mà lại mày ngài thêm xinh...
Tay, da, đầu có thể là
cái đẹp chung của người Hán người Việt nhưng rõ ràng, cái răng: hạt bầu
như thể... cũng như đầu trăn (Tản Đà giảng con trăn như
con ve mà bé) là vẻ đẹp theo chuẩn mực thẩm mỹ Hán tộc. Thời ấy, vẻ đẹp của
người Việt là nhuộm răng đen, xăm mình. Trong Sở từ, đau vì thân phận dòng Việt
của mình, Khuất Nguyên than: răng đen mình trổ dọc ngang!
Nhưng điều thú
vị là, ngay ở đây cũng hiển lộ yếu tố văn hoá Việt: mày ngài! Trồng
dâu nuôi tằm là bản nghệ của dân nông nghiệp phương Nam. Do chăm chút con tằm
từ ăn một ăn hai đến ra né, chọn giống, cho ngài đẻ… mà người nuôi
tằm nhận ra vẻ đẹp kỳ diệu của cặp râu con ngài. Sự so sánh tuyệt vời nảy sinh:
râu con ngài được ví với lông mày con gái. Thành ngữ mày ngài ra
đời! Đấy là sản phẩm của văn hoá nông nghiệp Bách Việt.
Khi đưa nghề tằm tang từ Văn hoá Hoà Bình lên
Trung Nguyên, người Việt cũng đưa luôn thành ngữ mày ngài lên
quê hương mới. Thành ngữ này, cũng như những từ vựng khác, nhập tịch ngôn ngữ
Trung Hoa rồi một cách vô thức phát lộ trong câu ca dao mang nhiều sắc thái Hoa
tộc nhất. Điều này là ví dụ tuyệt vời chứng tỏ sự đóng góp của văn hoá Bách
Việt vào văn hoá Trung Hoa.
Như vậy, có lẽ
sẽ công bằng hơn khi nói rằng, kinh Thi là đứa con lai giữa hai nền
văn hóa Hán và Việt mà trong đó phần hồn phần cốt là văn hóa của Bách Việt nông
nghiệp.
-------------------------------------------------------------------------------------------------
Sách tham khảo:
1.Kim Đinh. Việt lý tố
nguyên. An Tiêm Sài Gòn 1970 tr. 125
2. Hà Văn Thuỳ. Tìm
lại cội nguồn tổ tiên cội nguồn văn hoá. Talawas.org
3. Ts Nguyễn Thị Thanh
- Việt Nam trung tâm nông nghiệp lúa nước và công nghiệp đá xưa nhất thế giới–
Vietcatholic 30.9. 2001.
4. Kinh Thi NXB Thành
phố Hồ Chí Minh 1992 tr.XXXII
Nguồn: http://www.vanchuongviet.org
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét