Giám đốc Nguyễn Khắc Mai rất vui mừng vì cuộc sinh hoạt khoa học thường
xuyên lần này, phần lớn các báo cáo viên là nam nữ thanh niên trên dưới tuổi 30
đã có bằng cấp, học vị cử nhân, thạc sĩ và tiến sĩ. Song, ông cũng tha thiết
kêu gọi các nhà khoa học lớn tuổi, các giáo sư tiến sĩ…có tâm huyết nghề nghiệp
hãy tiếp tục cộng tác; trực tiếp nhận hướng dẫn, phụ đạo các nhà nghiên cứu trẻ
hướng tâm vào đề tài giá trị văn hóa của di sản khắc đá Việt Nam.
TMT xin trân trọng giới thiệu hai bài sau; cùng với bài đã đăng trước
khi tọa đàm, trong số tham luận tại cuộc tọa đàm.
BÃI
ĐÁ CÓ HÌNH KHẮC CỔ Ở ĐỒNG VĂN, HÀ GIANG
VÀ MỐI LIÊN HỆ VỚI BÃI ĐÁ CỔ SAPA, LÀO CAI
PGS. TS. Trình Năng
Chung
(Viện Khảo cổ học)
I. BÃI ĐÁ CÓ HÌNH KHẮC CỔ Ở ĐỒNG VĂN, HÀ GIANG
Cuối năm 2013, trong
đợt khảo sát khảo cổ học ở Hà Giang, cán bộ viện Khảo cổ học và Ban Quản lý Công viên Địa chất toàn cầu cao
nguyên đá Đồng Văn, đã phát hiện bãi đá có hình khắc cổ tại địa phận mỏ
Vonfram nằm gần trung tâm xã Hố Quáng Phìn, huyện Đồng Văn, cách đường biên
giới Việt –Trung khoảng hơn 20km về phía nam. Bãi đá có tọa độ địa lý: 230 8’47’’ Vĩ độ Bắc, 105014’
39” Kinh độ Đông.
Địa hình nơi đây là
những dải núi đất cao xen kẽ những thung lũng lớn, nhỏ.Hiện tại, trên bề mặt
những dãy núi đó còn lại rất ít rừng, do tập quán canh tác của cư dân hiện tại
chủ yếu là người Mông.Tại dãy núi không tên cách trung tâm mỏ Vonfram khoảng 1,5km về phía tây bắc, có ngọn núi với đỉnh cao 1500m so với mực nước biển.Tại đây trên gần đỉnh núi đã phát hiện được 5 tảng đácó hình khắc vẽ nằm xen kẽ giữa hàng chục tảng đá lớn nổi trên bề mặt. Những tảng đá này thực chất làđá gốc trồi lên, loại đácát kết, tương tự như loại đá có hình khắc ở thung lũng Mường Hoa, Sapa tỉnh Lào Cai. Tuy tập trung liền khoảnh, nhưng khoảng cách giữa 5 tảng đá có hình khắc không đều nhau, khoảng từ 5-150m.Cả 5 tảng đá không có hình dáng xác định và kích thước không đều nhau.Tảng to nhất có kích thước dài 1,8m, rộng 1,3m, cao 0,9m.Tảng nhỏ có kích thước dài 1,0m, rộng 0,90m, cao 0,70m.
1. Miêu tả di tích:
Tảng thứ nhất: Có kích thước dài 1,8m, rộng 1,3m, cao 0,9m có hình dáng giống chiếc phản, với bề mặt hơi cong khum. Trên bề mặt đá có tất cả hơn 40 hình khắc,một số hình chồng lấn lên nhau. Motifhình khắc gồm: Hình tròn giữa cómột lỗkhoét vũm: 3 hình; hình tròn giữa có hai lỗ vũm khoét: 1 hình; hình vòng tròn xoáy ốc: 1 hình; hình zic zắc: 2 hình; hình khắc vạch song song dạng bậc thang: 2 hình; hình chữ nhật ở giữa có lỗ khoét vũm: 2 hình. Số còn lại là những hình không xác định. Xen giữa các hình có khoảng hơn 20 lỗ vũm khoét tròn cóđường kính từ 3-5cm. Mặc dù, có một số hình khắc chồng lấn nhau, nhưng theo chúng tôi, các hình trên được tạo khắc trong cùng thời gian, có sớm muộn chút ít (hình 1).
Hình 1: Tảng đá có hình khắc số 1
|
Hình 2: Tảng đá có
hình khắc số 2
Tảng thứ ba: Nằm cách tảng thứ nhất khoảng hơn 150m về
phía đông nam. Các hình khắc trải dài theo chiều nghiêng của tảng đá. Đó là
những đường ngấp khúc hình sin, xen kẽ là những hình tròn có lỗ vũm ở giữa,
những đường thẳng rời riêng lẻ, những hình không xác.định và rất nhiều lỗ khoét
vũm(hình 3).
Hình
3: Tảng đá có hình khắc số 3
Tảng thứ tư: Nằm cách tảng thứ nhất khoảng 150m về phía tây bắc. Tảng đá có hình dáng
như hòn non bộ to, cao dựng đứng. Các hình khắc được thể hiện từ đỉnh tảng đá
xuống thân tảng đá là những đường ngấp khúc, xen kẽ là những khắc vạch ngang
song song giống ruộng bậc thang. Trên đỉnh tảng đá là những lỗ vũm được khoét
tròn với đường kính trung bình từ 4-5cm
(hình 4).Đáng chú ý là ở mặt phía bắc của tảng đá, ngang tầm tay với của người lớn có đục khắc một hình tam giác cân với đỉnh nhọn quay lên trên, hai cạnh bên dài 12cm, cạnh đáy dài 6,5cm (hình 5). Đây có thể là biểu tượng của sinh thực khí nữ giống những hình khắc ở Xín Mần (Hà Giang).
Hình 4: Tảng đá có hình khắc số
4
Hình 5:Hình khắc tam giác có
rãnh ở giữa
Tảng thứ năm: Nằm cách tảng thứ nhất khoảng
160m về phía tây bắc, cách tảng đá thứ tư khoảng 15m. Đây là tảng đá có kích
thước khá lớn.Có gần40 hình khắc thể hiện trên bề mặt tảng đá. Đó là những hình
vòng tròn đồng tâm, vòng tròn đơn có tia,hình chữ nhật, đường khắc vạch song
song, đường ngấp khúc hình sin, những vạch thẳng rời riêng lẻ và những lỗ vũm.
|
Hình 6: Tảng đá có hình khắc số
5
|
2.
Kỹ thuật khắc:
Để tạo những hình khắc này, người xưa đã sử dụng kỹ thuật đục khắc còn
rất thô sơ, dùng đục có sự trợ giúp của búa, đục trực tiếp trên bề mặt tảng
đá.Các hình khắc được tạo bằng cách đục khắc trên bề mặt tảng đá thành những
rãnh sâu hình lòng máng đáy hơi nhọn với chiều rộng từ 1,5-2,2m, sâu từ
1,0-1,5cm. Theo quan sát của chúng tôi, dụng cụ đục khắc này phải có chất liệu
là kim loại: sắt. Các hình khắc có thể được phác hoạ trước, đặc biệt là những
hình tròn, hình chữ nhật. Khi nghiên cứu kỹ thuật đục khắc trên bãi đá cổ Sapa,
tác giả Nguyễn Việt có nhận xét loại đục khắc tạo rãnh có mặt cắt hình chữ U
đáy khum lòng máng đặc trưng cho giai đoạn hình khắc sớm nhất ở Sapa (Nguyễn
Việt 2007: 26-27). Theo chúng tôi, nhận xét này còn đúng cho những hình khắc cổ
trên những bãi đá cổ ở vùng núi Bắc Việt Nam, trong đó có Đồng Văn.
3.
Những họa tiết và đồ án thể hiện
Tất cả có khoảng gần 130 hình khắc, phân bố không đều trên các tảng đá.
Motif thể hiện gồm: Những hình tròn đồng tâm có khoét lỗ vũm ở giữa, hình tròn
đơn có tia, hình tròn xoắn ốc, hình chữ nhật có lỗ vũm ở giữa, hình sin, hình
khắc vạch song song dạng bậc thang. Đáng chú ý hơn cả là hình sinh thực khí nữ
giới với hình tam giác khá cân xứng với lỗ đục sâu ở giữa tại tảng đá số 4. Số
còn lại là những hình không xác định.Ở đây không có các cảnh săn bắn hay biểu
tượnghình người hay các con thú.
Đứng trên vị trí phân bố bãi đá cổ, chúng ta có thể phóng tầm mắt ra xa,
ngắm nhìn không gian rộng lớn bên dưới, những thửa ruộng bậc thang, những dòng
suối uốn lượn, thấp thoáng đây đó những mái nhà ẩn dưới những lùm cây.Trong một
không gian bao la như vậy, thì những hình khắc trên đá có tính cổ xưa này đem
lại cho ta cảm giác như chúng là một sự họa đồ lại những bức tranh khung cảnh
thiên nhiên xung quanh. Nó có ý nghĩa thực tiễn như việc đánh dấu vị trí các
khu rừng, suối, đồi núi, cụm cư trú, hay ruộng nương.
Khi so sánh những hình khắc cổ ở đây với các hình khắc tương tự tìm thấy
ở Nậm Dầu, huyện Xín Mần (Hà Giang), ở Lao Chải, Chế Cu Nha, huyện Mù Căng Chải
(Yên Bái), ở Khe Hổ, huyện Bắc Yên (Sơn La) và đặc biệt ở Sapa (Lao Cai) cho
thấy có nhiều điểm tương tự về motif, đồ án thể hiện và kỹ thuật tạo khắc. Có
thể thấy, những hình khắc trên đá ở Hố Quáng Phìn, Đồng Văn là những tác phẩm
tạo hình thực sự của người đời xưa, chứa đựng những họa tiết và đồ án mang tính
biểu tượngcao.
4.Về chủ nhân:
Xung quanh những hình khắc cổ trên đá ở Hố Quáng Phìn có tồn tại những
truyền thuyết liên quan không?Kết quả khảo sát dân tộc học trong vùng cho thấy
câu trả lời là Không. Cư dân hiện tại sống ở khu vực này phần lớn là người
Mông, tiếp đến người Nùng và Dao và một số dân tộc khác. Bằng phương pháp phỏng
vấn dân tộc học, các cụ lão niên cao tuổi ở địa phương cho biết, đã từ bao đời
nay, sự tồn tại của bãi đá cổ với những hình khắc luôn là điều bí ẩn, họ cũng
không rõ những tảng đá có hình khắc đó có từ bao giờ. Hiện vẫn chưa tìm thấy mối
dây liên hệ giữa đời sống của cư dân ở đây với những hình khắc bí ẩn trên những
tảng đá.Như vậy, những tác phẩm trên đá ở đây đã bị chìm sâu vào trong quên
lãng của ký ức dân gian vùng và vấn đề chủ nhân đích thực của những hình khắc
trên vẫn còn là điều bí ẩn.
Trước mắt chưa thể
xác định được tộc thuộc chủ nhân các hình khắc ở Đồng Văn. Song một điều chắc
chắn dòng nghệ thuật này là thuộc về một hoặc vài nhóm cư dân thiểu số, sống du
canh, du cư, nay đây, mai đó. Theo sử sách cho biết vào thời điểm trước sau
Công Nguyên, khu vực phía bắc Đông Dương giáp nam Trung Quốc hiện nay là một
phần cương vực cư trú của khối người Bách Việt xưa. Đây là khu vực chứng kiến
nhiều biến động xã hội đương thời. Lúc đó do sự thôn tính, bành trướng của các
lãnh chúa phong kiến Hán tộc, các tộc người Bách Việt đã tiến hành nhiều cuộc
thiên di lớn từ nam Trung Quốc xuống. Họ men theo các thung lũng, triền sông,
tiến hành nhiều đợt, toả rộng xuống khu vực phía nam. Đặc biệt, vào khoảng từ
thế kỷ thứ 3 đến thế kỷ 9 do sức ép của các triều đình lớn ở phía bắc (Đông
Hán, Tuỳ, Đường) gây nên những đột biến lớn về quốc gia - tộc người ở vùng nam
Trung Quốc, đặc biệt ở các tỉnh Vân Nam, Quảng Tây, Quý Châu (Tưởng Bính
Chiêuchủ biên 2005). Nhiều đợt di dân xuôi theo các dòng sông lớn như sông
Hồng, sông Đà, sông Lô, sông Mê Kông...đã tạo ra một diện mạo dân cư mới ở bắc
Đông Dương và Đông Nam Á cổ đại (Nguyễn Duy Thiệu 1997). Những tộc di dân phần
lớn đã từng có thể chế xã hội thủ lĩnh đỉnh cao với nền tảng kinh tế chính là
trồng lúa nước. Họ đã nắm vững các kỹ thuật luyện kim rèn sắt, kỹ thuật thuỷ
lợi, chăn nuôi, trồng trọt… Rất có thể là một nhóm tộc người nào đó trong khối
Bách Việt đã tiến xuống cư trú vùng thung lũng Hố Quáng Phìn và là chủ nhân của
những hình khắc trên đá.
Mặc dù chưa xác định
được chính xác tộc thuộc chủ nhân các hình khắc, nhưng sự có mặt của biểu tượng sinh thực khí nữ cho chúng ta biết có nhiều khả
năng xã hội của chủ nhân các hình khắc vẽ đang trong chế độ mẫu hệ được coi
trọng với nền sản xuất nông nghiệp trồng lúa, làm vườn trên sườn dốc thung
lũng.
5. Về niên đại
Việc xác định niên
đại cho bãi đá có hình khắc cổ ở Hố Quáng Phìn, Đồng Văn cũng gặp nhiều khó
khăn.Qua so sánh về phong cách nghệ
thuật, về motif thể hiện và kỹ thuật tạo tác với các bãi đá có hình khắc cổ ở
khu vực miền núi phía Bắc như bãi đá cổ Sapa (Lào Cai), Xín Mần (Hà Giang), M Căng Chải (Yên Bái), Khe Hổ (Sơn La), bước đầu chúng tôi cho rằng bãi đá cổ Hố
Quáng Phìn- Đồng Văn có niên đại khoảng trên 1000 năm cách ngày nay.
II. Bãi đá cổ Đồng
Văn trong mối liên hệ với bãi đá cổ Sapa.
Đến nay, trong các di tích bãi đá có hình khắc cổở Việt Nam, việc nghiên
cứu những hình khắc cổở Sapa đãđạt được nhiều thành tựu nhất về nhiều phương
diện. Bãi đá cổ Sapa đã trở thành hệ quy chiếu khi nghiên cứu những bãi đá có
hình khắc ở những địa phương khác, đặc biệt những tỉnh miền núi phía Bắc.
Tại bãi đá cổ Sapa đến nay đã phát hiện gần 240 tảng đá có hình khắc cổ
phân bố trên 3 xã Hầu Thào, Tả Van, Tả Phìn (Sở VHTTDL Lào Cai, Trung tâm Viện
Viễn Đông Bác cổ Pháp tại Hà Nội 2012).
Đây là khối tư liệu đồ sộ, giúp các nhà nghiên cứu tìm hiểu khá đầy đủ
về nội dung các hình khắc cũng như xã hội và chủ nhân của chúng.
Khi nghiên cứu đối sánh một số nội dung hình khắc ở bãi đá cổ Đồng Văn
với bãi đá cổ Sapa, chúng tôi dựa vào kết quả nghiên cứu của tác giả Nguyễn
Việt khi ông nghiên cứu những họa tiết cơ bản và đồ án cơ bản các hình khắc ở
Đồng Văn (Nguyễn Việt 2007: 27). Chúng tôi lập bảng so sánh như sau:
Địa điểm
Họa tiết
Đề án
|
Bãi đá cổ Sapa
(Nguyễn Việt
2007:27)
|
Bãi đá cổ Đồng Văn
|
Họa tiết
|
Họa tiết rãnh
song song (90% số đá đơn lẻ có hình khắc)
|
Có (10%)
|
Họa tiết ô vuông
đục lõm và đường ô vuông (30%).
|
Họa tiết hình chữ
nhật (20%).
|
|
Họa tiết đường
dài rộng bản (12%).
|
Có (30%)
|
|
Họa tiết đường
tròn đơn hoặc tròn xoắn ốc (3%).
|
Có (10%)
|
|
Đồ án
|
Đồ án mang tính
sơ đồ (90%).
|
Có (30%)
|
Đồ án hình người
(3%).
|
Không có
|
|
Đồ án sinh dục nữ
(tam giác và bầu dục) (4%).
|
Có (0,76%)
|
|
Đồ án mặt trời hoặc mặt cối xay (2%).
|
Không có
|
|
Đồ án máy bay quân
sự (2%).
|
Không có
|
|
Đồ án xe quân sự
(2%).
|
Không có
|
|
Đồ án hình nhà
(2%).
|
Không có
|
|
Đồ án ký tự chữ
viết (2%).
|
Không có
|
|
Đồ án động, thực
vật (?)”.
|
Không có
|
Qua kết quả so sánh cho thấy họa tiết các hình khắc ở Đồng Văn có nhiều
điểm tương tự cũng như khác biệt với những hình khắc ở Sapa. Điểm tương tự biểu
hiện ở các họa tiết cơ bản như: Họa tiết rãnh song song, họa tiết đường dài
rộng bản, họa tiết đường tròn đơn hoặc tròn xoắn ốc đều có mặt ở hai bãi đá cổ.
Điểm khác nhau chính là tỷ lệ các họa tiết giữa hai bãi đá cổ Đồng Văn và
Sapa.Ví như họa tiết rãnh song song gợi hình ảnh ruộng bậc thang ở Sapa có tỷ
lệ rất lớn:90%, Đồng Văn là 10%, trong khi họa tiết đường dài rộng bản và đường
tròn đơn hoặc xoắn ốc ở Đông Văn cao hơn ở Sapa v.v…Ở Đồng Văn không có họa
tiết ô vuông đục lõm và đường ô vuông mà thay vào đó là họa tiết hình chữ nhật.
Một số đồ án cơ bản như: Đồ án mang tính sơ đồ, đồ án sinh dục nữ ở hai
nơi đều có nhưng ở Đồng Văn có tỷ lệ thấp hơn nhiều rất nhiều so với Sapa. Ở
Đồng Văn hoàn toàn vắng mặt các đồ án hình người, máy bay quân sự, xe quân sự,
hình nhà, ký tự chữ viết, động thực vật. Hãy tạm gác một bên những hình khắc
mang yếu tố tượng hình thời hiện đại như máy bay, ô tô, xe tăng, tầu thủy, anh
bộ đội, nhà cao tầngv.v.., thì những đồ án hình khắc trên đá Sapa vẫn giầu biểu
tượng hơn ở Đồng Văn.
Nếu chúng ta mỗi khi có dịp nghé thăm di tích bãi đá cổ Sapa đều có ấn
tượng mạnh mẽ về sự phong phú, đa dạng của nghệ thuật tạo hình trên đá, chắc
hẳn sẽ có cảm xúc khác, nhẹ nhàng hơn khi đến thăm bãi đá cổ Đồng Văn bởi tính
đơn sơ, thuần phác của những hình khắc nơi đây.
Trong những nghiên cứu trước đây về các bãi đá cổ Nậm Dầu, huyện Xín Mần
(Hà Giang), ở Lao Chải, Chế Cu Nha, huyện Mù Căng Chải (Yên Bái), ở Khe Hổ,
huyện Bắc Yên (Sơn La), các nhà nghiên cứu cũng đã nhận thấy có hiện tượng
tương tự bãi đá cổ Đồng Văn khi so sánh với bãi đá cổ Sapa (Trình Năng Chung
2006, 2007, 2017,Bùi Văn Mạnh, Phạm Văn Tuân 2013). Điều này cho thấy nghệ
thuật khắc đá ở những di tích nói trên có mối dây liên hệ chặt chẽ với bãi đá
cổ Sapa và có chung một truyền thống. Đồng thời cũng phản ánh tính phức tạp và
đa dạng ở mức phát triển cao hơn của bãi đá cổ Sapa so với các bãi đá cổ khác.Mặt khác, nó cũng biểu hiện tính cổ sơ mang
tính niên đại của những di tích này so với di tích Sapa.Niên đại của các di
tích đá cổ Sapa cho thấy lớp cư dân sớm nhất có niên đại cổ hơn 890 năm cách
ngày nay (Nguyễn Việt 2007: 24).Niên đại của các di tích Xín Mần, Đồng Văn (Hà
Giang), Mù Căng Chải (Yên Bái), Bắc Yên (Sơn La) có thể sớm hơn Sapa một chút.
Tại vùng thung lũng Nậm Dầu, Xín Mần (Hà Giang) mới chỉ phát hiện được 6
tảng đá có hình khắc.Ở Đồng Văn phát hiện được 5 tảng đá có hình khắc.Tại Mù
Căng Chải (Yên Bái) có khoảng hơn 10 hiện tượng tương tự.Ở địa điểm Khe Hổ (Sơn
La) phát hiện 9 tảng đá có hình khắc.Chủ nhân của chúng có thể là những nhóm
người sống phân tán trên những rẻo vùng cao phía Bắc có mối quan hệ tộc thuộc
với cộng đồng cư dân-chủ nhân của bãi đá có hình khắc cổ Sapa.Về cấu trúc xã
hội của nhữngnhóm cư dân này vẫn là dấu hỏi chưa có lời giải.
Với số lượng rất lớn và mật độ tập trung cao những di tích có hình khắc
trên đá, thung lũng Mường Hoa ở Sapa được xem như một trung tâm kinh tế, xã
hội, văn hóalớn của những chủ nhân sáng tạo ra những tác phẩm nghệ thuật tạo
hình trên đá và di tích cự thạch. Trong cộng đồng cư dân sinh sống ở thung lũng
Mường Hoathủa ấy chắc hẳn đã có tổ chức xã hội ở trình độ cao, với nền kinh tế
chính là trồng lúa trên những ruộng bậc thang và vùng trũng thung lũng. Hiện
tượng hơn 90% hình khắc đá ở Sappa mang biểu tượng đồ họa ruộng bậc thang, phân
bố trên một khu vực rất rộng.Những hình khắc này phản ánhmột nhu cầu biểu đạt
có tính xã hội và tính thực tiễn cao, mang nặng tính quy ước nào đó về mốc giới
ruộng, nương, nhà ở.Điều nàyphải chăng
phản ánh về một xã hội phân quyền mà quyền sở hữu ruộng đất thuộc về nhiều chủ
nhân, những người có công khai phá thung lũng Mường Hoa mầu mỡ?
Có một câu hỏi đặt ra cho chúng ta: Những hậu duệ của chủ nhân những hình
khắc trên đá ở Sapa, Xín Mần, Đồng Văn, Mù Căng Chảiv.v..có nối tiếp truyền
thống khắc tạo hình trên đá của những bậc tiền nhân? Hiện chúng ta còn thiếu
rất nhiều, rất nhiều tư liệu để làm sáng tỏ vấn đề này. Tất cả trông chờ vào nỗ
lực khám
phá và nghiên cứu của các nhà khoa học trong tương lai.
Kết luận:
Những kết quả nghiên
cứu bước đầu về bãi đá có hình khắc cổ ở
ĐồngVăncho thấy di tích này có nhiều giá trị về lịch sử, văn hóa. Những
motif và những đồ án biểu tượng, cũng như kỹ thuật chạm khắc ở Đồng Văn có
chung truyền thống nghệ thuật tạo hình trên đá ở Sapa. Điều nàygóp phần tìm
hiểu nghệ thuật tạo hình thời xa xưa ông cha ta.
Từ những hình chạm khắc trên bãi đá cổ ở Đồng Văn, Xín Mần, Mù Căng Chải,
Bắc Yên và đỉnh cao là bãi đá cổ Sapa, những bậc tiền nhân đã gửi cho chúng ta
nhiều thông điệp, trong đó còn nhiều điều bí ẩn chưa được khám phá. Hy vọng trong tương lai
sẽ có nhiều cơ quan chức năng, nhiều nhà nghiên cứu dành nhiều công sức, trí
lực trong việc khám phá và nghiên cứu truyền thống nghệ thuật tạo hình trên đá
ở Sapa- Xín Mần- Đồng Văn v.v…
Tài liệu dẫn và tham
khảo
Bùi Văn Mạnh, Phạm
Văn Tuân 2013.Bãi đá có hình khắc cổ tại
Sơn La. Trong Những phát hiện khảo cổ học mới năm 2012. Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội, tr 129-131.
Nguyễn Duy Thiệu chủ
biên. 1997: Các dân tộc ở Đông Nam Á.
N x/b Khoa học xã hội .1997.
Nguyễn Việt 2006: Niên đại và Chủ nhân những hình khắc trên đá
ở Sapa. Trong Sách “Bãi đá cổ Sapa dưới con mắt tạo hình”. Nxb Thế giới,
tr.19-27.
Goloubew. V. 1926: Roches gravees dans la region de
Chapa(Tonkin). Bulletin I’Ecole francaise d’Extreme-Orient. Hanoi-Paris.
Vol XXV.p 423-433.
Sở VH-TT-DL Lào Cai,
Trung tâm Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp tại Hà Nội 2012. Bãi đá có hình khắc cổ huyện Sapa, tỉnh Lào Cai. Nxb Thế giới. Hà
Nội.
Trình Năng Chung
2006.Những hình khắc trên đá ở Hà Giang.Tạp
chí Nghiên cứu Mỹ thuật.số 3, tr. 33-37.
Trình Năng Chung
2007.Những hình khắc cổ trên đá ở Xín
Mần, Hà Giang.
Tạp chí Khảo cổ học,
số 5, tr 76-84.
Trình Năng Chung và
nnk 2017.Những hình khắc trên đá ở Đồng
Văn (Hà Giang) và Mù Căng Chải (Yên Bái). Trong “Những phát hiện khảo cổ
học mới năm 2016. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr 84-86.
Trường Đại
học Mỹ thuật Hà Nội, Viện Mỹ thuật 2007.Bãi
đá cổ Sapa dưới con mắt tạo hình. Nxb Thế giới. Hà Nội
Tưởng Bính Chiêu chủ
biên 2005.Nghiên cứu văn hoá dân tộc Bách
Việt.
Nxb Đại học Hạ Môn.桨炳钊 (主编) 2005. 百越文化研究. 夏门大学出版社.
GIÁ TRỊ DI SẢN BÃI ĐÁ CỔ SA PA HIỆN NAY
Ths. Lưu Ngọc Thành
Trường Đại học Văn
hóa Hà Nội
1.
Vài nét về di sản bãi đá cổ
Sa Pa
Có thể nói, nằm lọt trong thung lũng Mường Hoa, bao
bọc là những núi cao trên dưới 2.000m, bãi đá cổ lớn gợi sự chú ý với nhiều bản
khắc phong phú. Có hình vạch tròn khá giống Mặt trời, hình nam nữ giao phối,
hay những vạch kẻ song song...Hai bãi đá cổ nằm trên địa phận xã Hầu Thào, Sử Pán
và Tả Van, quanh con suối Mường Hoa (suối Hoa) trong thung lũng Mường Hoa, cách
thị trấn Sapa 7km theo hướng Đông Nam.
Tại Hầu Thào, các viên đá tập trung thành hai bãi
lớn:
- Bãi một nằm cạnh bản Pho - một bản của người
H‘Mông trên sườn núi sát đường cái - kéo dài xuống gần lòng suối. Số lượng đá
có chạm khắc ở đâu không nhiều, nhưng đều là những khối đá lớn, có khối dài tới
13m. Các bản chạm khắc có quy mô mật độ dày, cấu trúc hình khắc phức tạp [1,
tr.15].
- Bãi hai nằm giáp ranh biên giới xã Hầu Thào và Lao
Chải, trên con đường mòn từ đường cái qua các thửa ruộng bậc thang lên bản Hầu
Chư Ngài, bản H‘Mông trên đỉnh núi còn gọi là đường lên Hang đá. Đây là một bãi
đá rộng trên 100 hòn đá có nhiều hình chạm khắc thuộc nhiều loại, có những hình
độc bản (chỉ xuất hiện trên một viên duy nhất [1, tr.16].
Ở các vùng ngoại vi như khu vực dưới chân Cầu Mây
nổi tiếng của xã Tả Van, hay sang địa phận xã Tả Van và Sử Pán rải rác có một
vài hòn đá đơn lẻ, chạm khắc với hoa văn không khác biệt nhiều so với hai bãi kể
trên.
Nhìn tổng thể, các hình chạm khắc có thể quy về vài
nhóm chính: Hình tròn khắc vạch tương đối giống cấu trúc hoa văn thời kỳ văn
hóa Hoa Lộc có thể dùng để tượng trưng cho Mặt trời, hình nam nữ giao phối,
nhấn mạnh vào các bộ phận sinh dục, các đường vạch song song tựa như những quẻ
Kinh Dịch, ngắn hoặc có thể kéo dài ôm lấy viên đá dường như thể hiện những
cánh đồng, hoặc thửa ruộng bậc thang, các hình vuông, chữ nhật đục chìm là nhà
cửa hoặc tượng trưng cho khu dân cư sinh sống... Đại bộ phận đều mang đậm dấu
ấn của tư duy tạo hình giản đơn và khúc triết, xuất phát từ những con người
nguyên sơ đời sống gắn bó sâu sắc với tự nhiên.
Theo một số tài liệu lịch sử và dân tộc học, lịch sử
hình thành dân cư vùng thung lũng Mường Hoa có hai giai đoạn.
Giai đoạn sớm cách nay chừng 900 năm, nơi đây từng
là khu vực sinh sống của một xã hội Tày cổ, có tổ chức và thiết kế hoàn chỉnh,
phát triển đời sống vật chất và tinh thần tới trình độ cao. Sau đó không rõ lý
do nào đã xảy ra một cuộc di cư lớn, toàn bộ cộng đồng này chuyển đi, bỏ lại
thung lũng hoang vắng. Hiện ở Sapa vẫn có một vài nhóm nhỏ người Tày sinh sống
tại những vùng đất phẳng phía Nam thuộc các xã Bản Hồ, Thanh Phú, Nậm Sài.
Giai đoạn muộn chính là sự hình thành của lớp dân cư
hiện đại, mà những cư dân sớm nhất là người H‘Mông, đến đây lập nghiệp chừng
300 năm trước [1, tr.9]. Vậy xảy ra hai giả thuyết về nguồn gốc hình thành bãi
đá, một thuộc về nhóm cư dân hiện đại đa sắc tộc và sống rải rác; một thuộc về
nhóm cư dân cổ mà những hiểu biết về họ còn nhiều mơ hồ, song dường như đây là
một cộng đồng lớn, có tổ chức xã hội và từng đạt đến một trình độ văn minh nhất
định.
Có thể nói, giá trị nổi bật nhất là giá trị đa dạng
văn hoá của các cư dân cổ đã từng sinh sống ở đây. Qua nhiều năm nghiên cứu, dù
chưa giải mã được về niên đại, chủ nhân của bãi đá, nhưng các nhà khoa học đều
công nhận về giá trị mỹ thuật và văn hoá của nó. Có người cho rằng văn hoá ở
đây có từ thời kỳ tiền Đông Sơn, có người cho rằng thời kỳ Đông Sơn. Tuy nhiên,
tất cả các cư dân đã từng đến đây đều để lại dấu vết trên bãi đá, như là những
chứng tích rõ ràng nhất.
Đến nay, các nhà khoa học vẫn chưa thể đưa ra những
nhận định chính xác về nguồn gốc hình thành và chủ nhân địch thực của bãi đá
này.
2. Thực trạng quản lý khu di sản bãi đá cổ Sa Pa
Hiện nay, bãi đá cổ Sa Pa với 211 phiến đá lớn nhỏ ghi dấu những hoa văn, ký tự, hình
chạm khắc khác nhau như: hình người, hình ruộng bậc thang, nhà sàn, dấu vết chữ
viết… Những phiến đá cổ có khắc hình chạm khắc nằm rải rác trên diện tích 4 km
vuông, hàng trăm năm qua dãi dầu cùng mưa nắng. Có phiến đá nằm ngay gần đường
đi, có phiến đá nằm sâu trong rừng. Du khách đến thăm bãi đá này thoải mái trèo
lên ngồi, nằm, rồi dùng dao hoặc đinh khắc lên đó nhiều hình khắc, phá hoại một
cách nghiêm trọng di tích. Người dân địa phương trèo lên các phiến đá này để
phơi phóng, bổ củi. Do ảnh hưởng của thời gian và tác động của con người đã làm
cho những vết chạm khắc trên các phiến đá mờ dần, rất khó xác định niên đại.
2.1. Những khó khăn trong công tác quản lý di sản bãi đá cổ Sa Pa
Trong thực tế, bãi đá cổ Sa Pa là điểm đến tham quan của nhiều du khách
trong và ngoài nước mỗi khi đặt chân tới vùng đất Lào Cai. Một số chuyên gia
chữ viết từng nhận định rằng, tổng thể bãi đá cổ này là một bộ sách khổng lồ
được khắc bằng văn tự đồ họa cổ. Bên cạnh đó, cũng có những nhà nghiên cứu cho
rằng, các hình vẽ này thuộc nhiều thời đại khác nhau. Ở đây, người ta nhận thấy
có rất nhiều nét tương đồng với văn hóa Đông Sơn, có niên đại cách đây 2.300 -
3.000 năm [2, tr.15].
Trong thời gian qua, thông tin có người cố tình hay vô ý tẩy xóa những
hoa văn, ký tự trên một số phiến đá cổ rộ lên. Tuy nhiên, trên thực tế, việc
tẩy xóa này chỉ xảy ra trên một số phiến đá nằm gần nhà trưng bày các bản dập
của khu chạm khắc đá cổ Sa Pa. Theo đại diệnBan Quản lý di tích huyện Sa Pa cho
biết: “Việc tẩy xóa trên các phiến đá cổ là hoàn toàn không đúng. Phiến đá được
phản ánh bị tẩy xóa chỉ là vết sơn của người dân địa phương chơi Tết năm 2017
để lại, khi ban bảo vệ di tích phát hiện đã lấy khăn ướt lau nhằm làm sạch. Do
nhiều năm phơi sương, phơi nắng, những phiến đá này không còn được như nguyên
thủy nên xảy ra hiện tượng ở vị trí được làm sạch có đổi màu so với những phần
khác của phiến đá. Thực tế, phiến đá này nằm ở vị trí mà ban bảo vệ di tích có
thể quan sát nên sẽ không có ai cố tình tẩy xóa được” (Tư liệu phỏng vấn ngày
25 tháng 7 năm 2018). Cũng theo đại diện của Ban quản lý cho biết thêm, vị trí
phiến đá được ban bảo vệ làm sạch vết sơn trước đây không hề có hoa văn hay ký
tự nào, một số nét nguệch ngoạc như hiện nay là do du khách hoặc người dân viết
lên. Minh chứng là trong bản dập mà các nhà nghiên cứu thực hiện năm 2005, vị
trí này không hề được ghi lại. Phiến đá còn có vết bùn đất do trẻ con nghịch
ném lên, lâu ngày bong ra làm đổi màu.
Theo đại diện Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch tỉnh Lào Cai, ngay sau khi
có thông tin phản ánh về việc tẩy xóa trên đá cổ, sở đã cho người đến kiểm tra.
Hiện nay, sở có những đề án nhằm bảo tồn di tích cấp quốc gia này. Rất nhiều
lần, Sở đã kiên quyết giữ bằng được bãi đá cổ khi nhiều công ty muốn vào khai
thác nguồn lợi từ thủy điện.
Theo nhà nghiên cứu dân tộc học Nguyễn Văn Huy cho rằng: “Bãi đá cổ Sa Pa
là một tài sản lịch sử lâu đời. Các chuyên gia Pháp và Viện Khảo cổ Việt Nam đã
nghiên cứu rất kỹ nhưng đây vẫn là một bí mật chưa thể khám phá. Từ đó, việc
bảo vệ nguyên trạng bãi đá cổ này là cần thiết và phải làm nghiêm túc. Để việc
tổ chức bảo tồn được hiệu quả, Bộ VH,TT&DL cần phải phối hợp chặt chẽ với
tỉnh Lào Cai thực hiện các phương án cụ thể” (Tư liệu phỏng vấn ngày 25 tháng
10 năm 2018). Cũng theo ông Nguyễn Viết Chức, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn
hóa - Giáo dục - Thanh thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội cho biết: “Hiện nay,
tình trạng vẽ, viết bậy diễn ra ở nhiều di tích trên cả nước. Lâu nay, các cơ
quan, ban ngành đã vào cuộc nhưng tình trạng xuống cấp của nhiều di tích, trong
đó có bãi đá cổ Sa Pa, vẫn xảy ra, việc bảo tồn rất khó vì thiếu nhân lực cũng
như vật lực. Tuy nhiên, các ban ngành liên quan vẫn phải kết hợp chặt chẽ để
tìm ra cách bảo tồn, không thể để các di sản bị hao tổn theo thời gian” (Tư
liệu phỏng vấn ngày 11 tháng 12 năm 2018).
Trên thực tế, do địa bàn quá rộng với hơn 200 phiến đá trải rộng trong03
xã nên việc thực hiện các hoạt động quản lý của Ban Quản lý di tích gặp rất
nhiều khó khăn về nhân lực, trình độ quản lý, trang thiết bị, ý thức của người
dân và sự tác động của thiên nhiên… đến khu di sản đặc thù này.
2.2. Các hoạt động cụ thể được thực hiện tại khu di sản bãi đá cổ Sa Pa
Đầu năm 2005, UBND tỉnh Lào Cai đã có công văn
gửi Bộ Văn hoá -Thông tin (Nay là Bộ VH,TT&DL) đề nghị thỏa thuận Dự án bảo
tồn, tôn tạo Khu chạm khắc đá cổ Sa Pa. Trước thực trạng này, sau khi được tỉnh
Lào Cai chấp nhận, tháng 7 năm 2005, Công ty Tu bổ Di tích và Thiết bị văn hoá
Trung ương đã hoàn thiện dự án “Bảo tồn, tôn tạo Khu chạm khắc bãi đá cổ Sa
Pa”.Những tưởng, với bộ hồ sơ dự án dày hàng trăm trang bao gồm các giải pháp
gìn giữ, phát huy giá trị di tích sẽ làm cho khu bãi đá cổ trở nên an toàn hơn
trước mối đe dọa thường nhật.
H.1: Chi tiết mặt bằng một “viên đá độc lập”
theo thiết kế của dự án
[Nguồn: Trích từ tự án “Bảo tồn, tôn tạo Khu
chạm khắc bãi đá cổ Sa Pa”]
Trong phần thuyết minh của mình. Dự án cho
biết, đối với từng hòn đá, giải pháp bảo tồn, tôn tạo là: “trước tiên đào thám
sát quanh hòn đá, hạ cốt đất, bộc lộ toàn bộ phần bề mặt hòn đá có hình chạm
khắc, sau đó làm nền, đổ bê tông mác 100, dày 70 lưới thép đường kính 4mm một
dải rộng 800 bao quanh toàn bộ hòn đá, trên bề mặt quét màu giả đất”. Sau khi
làm “hạ tầng cơ sở” giả cho từng hòn đá, dự án còn đề nghị “mỗi hòn đá đều được
phủ quét dung dịch silicat (hoá chất kiến nghị sử dụng là dung dịch Penetrat
seler của hãng Aquamix-USA, là loại hoá chất đã được sử dụng bảo quản các tượng
đá ngoài trời ở Italia) để hạn chế sự phong hoá, bào mòn của tự nhiên”.
Tuy nhiên, các giải pháp có nguy cơ làm “bê
tông hoá” di tích bãi đá cổ Sapa, bởi khu bãi đá cổ nơi đây từ lâu được giới
chuyên môn xem như một bảo tàng ngoài trời mà hiện vật quan trọng nhất của nó
chính là những hòn đá lưu giữ các hình chạm khắc cổ của người thời xưa. Vì vậy,
giải pháp bảo tồn cũng phải đặc biệt lưu ý đến giá trị này để không chỉ gìn giữ
được nét chạm khắc cổ mà còn bảo tồn được giá trị tự nhiên hàng nghìn năm nay
của di tích.
Nếu chúng ta tiến hành đào xung quanh, hạ cốt
đất rồi đổ bê tông giả đất thì chẳng khác nào biến nó thành “hiện vật” trong
bảo tàng. Nguy hiểm hơn tự phá bỏ đi yếu tố tạo dáng tự nhiên của các hòn đá
cổ.Hơn 200 hòn đá cổ ở đây đều bị “biến dạng” và mất đi nét đẹp của tạo hoá
nữa. Thêm vào đó, công tác đào thám sát không phải của các nhà trùng tu mà
thuộc chuyên môn của các nhà khảo cổ.
Bên cạnh việc bảo tồn, tôn tạo các hòn đá cổ, dự án
còn đưa ra hướng xây dựng khác nữa mà khi nhìn vào từng hạng mục thì thấy có
thêm một công viên trong không gian văn hoá cổ nơi đây.Dự án đề xuất dựng các
ngôi nhà truyền thống của nhiều dân tộc như: H’mông, Dao, Giáy trong khuôn viên
bãi đá cổ. Trong mỗi một nhà truyền thống như vậy, phía Dự án còn đề nghị bổ
sung các hiện vật sinh hoạt thường nhật và kể cả những giá trị văn hoá dân
gian.Sở dĩ phải làm như vậy vì các tác giả cho rằng, khách tham quan sau khi
thăm các hòn đá cổ thì còn vào những ngôi nhà này để được hiểu sâu hơn giá trị
kiến trúc của ngôi nhà của nhiều dân tộc bản địa. Khu di tích bãi đá cổ nằm
trên địa hình không được bằng phẳng, bao xung quanh là không gian, cảnh quan
rất hữu tình. Chính sự kết hợp của cả hai giá trị khoa học và thiên nhiên ấy mới
tạo nên sự đặc thù của di tích.
Một vấn đề khác nữa nằm trong “công viên” này
là sẽ có một số nhà dịch vụ được dựng lên trong những khoảng trống của di tích
làm chỗ dừng chân và phục vụ du khách. Trong khuôn viên di tích rộng hàng chục
ha thì làm những ghế đá để khách dừng chân nghỉ ngơi.
Trong những năm 2005 - 2008, tiến sĩ Phillipe Le Failler (Viện Viễn
đông Bác cổ) đã tiến hành chương trình bảo tồn khu bãi đá cổ Sa Pa bằng cách
thống kê, định vị, chụp lại hình ảnh và đưa tất cả những thông số này vào máy
vi tính để nghiên cứu. Để sao chụp được những hình khắc trên đá lên giấy bản
một cách chính xác, ông và các cộng sự đã sử dụng phương pháp rập bia của người
Việt cổ là dùng chuối làm chất kết dính để in vào giấy dó. Nhóm của Tiến sĩ
Phillipe Le Failler đã lập bản đồ và rập được 240 phiến đá ở xã Hầu Thào, lập
thành gần 3.000 bản dập (gần 1.500 mét vuông) và trên 3.000 bức ảnh. Nhóm làm
việc đã phải treo lơ lửng trên khoảng giữa độ cao 975 mét và 125 mét, có khi
cao hơn 1.250 mét. Với mỗi phiến đá, phải gạt bỏ hết phần đất cát phủ lấp trên
phiến đá mới làm được.
Cuối năm 2008, Viện Mỹ thuật Việt Nam, Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam
kết hợp với Sở Văn hoá và Thông tin tỉnh Lào Cai và Trung tâm Tiền sử Đông Nam
Á tổ chức chương trình giới thiệu về Bãi đá cổ Sa Pa có chủ đề “Bãi đá cổ Sa Pa
dưới con mắt tạo hình”. Tại Trường Mỹ thuật Việt Nam trưng bày các bản rập khác
nhau và hình ảnh các góc độ khác nhau về hình khắc và bãi đá mà các đơn vị đã
in rập được từ năm 2003 nhân kỷ niệm 100 năm Sa Pa. Hơn 150 bản rập khác nhau,
nhỏ nhất 0,25 mét vuông, lớn nhất lên tới 20 mét vuông, với các hình khắc hiện
lên trên bề mặt, như những tác phẩm nghệ thuật với đầy đủ ý niệm tư duy tạo
hình.Theo tác giả Tiến sĩ Trương Quốc Bình cho biết, để chuẩn bị hồ sơ
trình UNESCO công nhận khi bãi đá cổ là di sản thế giới, cần phải có sự quan
tâm, hợp tác giữa các cơ quan Trung ương và tỉnh Lào Cai có các biện pháp bảo
vệ di sản này. Tỉnh Lào Cai phải xác định được khu vực bảo vệ của di sản (khu
vực nào cần bảo vệ nghiêm ngặt, khu nào là vùng đệm) để có qui chế trong việc
quản lý, bảo vệ và khai thác. Không nên để xảy ra tình trạng ngành văn hoá thì
cứ bảo vệ, còn ngành du lịch thì cứ đưa khách đến, ngồi, nằm vô tư lên bãi đá,
thậm chí vạch lên bãi đá nhiều hình thù khác làm tổn hại đến di tích. Bên cạnh
đó, chính quyền tỉnh Lào Cai cũng cần phát huy tính chủ động của người dân địa
phương trong việc bảo vệ di sản này.
3. Vấn đề bàn luận trong việc bảo vệ và phát huy giá
trị của khu di sản bãi đá cổ Sa Pa hiện nay
Từ những vấn đề nêu ra trên đây về giá trị và thực
trạng quản lý tại khu di sản văn hóa tư liệu ký ức đặc sắc này, tác giả bài
viết nêu ra một số vấn đề có tính chất trao đổi với mục đích góp phần bảo vệ và
phát huy tốt hơn nữa giá trị của di sản này tại huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai hiện
nay, cụ thể như sau:
3.1. Đối với quản lý nhà nước tại huyện Sa Pa, cụ
thể là Ban Quản lý di tích cấp huyện
Một là, Cần nghiên cứu, vận dụng các văn bản về quản
lý di sản văn hóa của nhà nước và các công ước quốc tế, từ đó, ban hành và tổ
chức thực thi, tuyên truyền sâu rộng thông qua các hình thức trực tiếp và gián
tiếp tới cộng đồng cư dân đang sinh sống tại trong và cạnh khu di sản đặc biệt
này. Đồng thời, cơ quan quản lý cũng cần tuyên truyền các quy định đến với
khách du lịch trong nước và quốc tế để họ hiểu và tôn trọng di sản ký ức đặc
thù này.
Hai là, nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán
bộ hiện đang công tác tại Ban Quản lý di tích, trên thực tế, đội ngũ cán bộ này
đều tốt nghiệp hệ đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp từ các chuyên
ngành khác nhau, không có cán bộ, nhân viên nào tốt nghiệp từ ngành Di sản văn
hóa và đến nay họ cũng chưa được đào tạo nghiệp vụ ngắn hạn về di sản văn hóa
tại một cơ sở giáo dục cụ thể như: Đại học Văn hóa Hà Nội… Do vậy, vấn đề bổ
sung kiến thức, cập nhật thông tin của ngành di sản văn hóa là điều hết thức
cần thiết hiện nay.
Ba là, cơ quan quản lý cần xây dựng kế hoạch dài hạn
từ 5 đến 10 năm, trung hạn từ 3 đến 5 năm và ngắn hạn từ 1 đến 2 năm trong hoạt
động bảo vệ và phát huy giá trị của khu di sản này. Bởi trên thực tế, việc xây
dựng kế hoạch sẽ góp phần định hướng tốt cho nhiệm vụ triển khai của cơ quan
quản lý di sản nơi đây. Có thể dẫn ra trường hợp như kế hoạch dài hạn 10 năm là
đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của Ban Quản lý; kế hoạch trung
hạn là cử một số cán bộ, nhân viên theo học lớp hệ vừa học vừa làm trong 4 năm;
kế hoạch ngắn hạn là liên kết, tổ chức lớp bồi dưỡng ngắn hạn về nghiệp vụ di
sản văn hóa và quản lý di sản văn hóa…
Bốn là, liên kết và chia sẻ quyền lợi với cộng đồng
vềkinh tế, cụ thể ở đây là nguồn kinh phí thu được từ các nguồn dịch vụ và phí
thu vé vào tham quan khu di sản văn hóa. Khi cộng đồng có được quyền lợi kinh
tế thì họ sẽ tích cực hơn trong việc bảo vệ và gìn giữ di sản được tốt hơn.
Song bên cạnh quyền lợi được hưởng thì cơ quan quản lý di sản cũng cần gắn
trách nhiệm của cộng đồng với di sản như: Cử đại diện tham gia vào đội bảo vệ
an ninh, soát vé và phục vụ trong khu di sản…
Năm là, đa dạng hóa các chương trình và nội dung
quảng bá trên nhiều phương diện khác nhau như: 1. Quảng bá bằng hình thức trực
tiếp gồm in ấn sách chuyên khảo, sổ tay du lịch, tờ rơi, tờ gấp, catalog…; 2.
Quảng bá bằng hình thức gián tiếp như: Xây dựng trang website với tên miền
“BaidacoSaPa.org.vn” để khách du lịch có thể truy cập và tìm đọc thông tin
trước khi đến với khu di sản. Trang website này cần chia thành các nội dung
như: 1/Giới thiệu chung; 2/Cơ cấu tổ chức nhân sự, chức năng, nhiệm vụ; 3/Các
hoạt động diễn ra tại khu di sản; 4/Các kết quả nghiên cứu được công bố; 5/Hình
ảnh về khu di sản; 6/Liên hệ… Bên cạnh đó, cơ quan quản lý cũng cần xây dựng
các trang mạng xã hội như: facebook, zalo để quảng bá thông tin và hình ảnh về
di sản văn hóa. Tuy nhiên, muốn thực hiện tốt công việc quảng bá gián tiếp này,
thì cơ quan quản lý cần giao nhiệm vụ cho một nhân viên chuyên trách để thường
xuyên cập nhật thông tin, hình ảnh về di sản. Có như vậy thì việc quảng bá di
sản bãi đá cổ Sa Pa mới có thể mang lại hiệu quả cao.
3.2. Đối với tự quản cộng đồng
Một là, Đề cao vai trò của cộng đồng cư dân sinh
sống trong và cạnh khu di sản bãi đá cổ Sa Pa. Họ chính là chủ thể địa phương,
sinh sống tại khu di sản, do vậy họ hiểu rõ về di sản bãi đá cổ này.
Hai là, Tổ chức giáo dục cộng đồng về di sản văn
hóa, đặc biệt nhấn mạnh đến các hoạt động được làm và không được làm của cộng
đồng ứng xử với di sản văn hóa tại địa phương. Hướng dẫn cộng đồng trong việc
tổ chức các hoạt động dịch vụ du lịch khi khách tham quan có nhu cầu.
Ba là, Gắn trách nhiệm của cộng đồng với di sản văn
hóa đặc thù này trong việc giữ gìn, bảo vệ, tuyên truyền về hình ảnh, giá trị
của di sản văn hóa địa phương như: Tham gia cùng Ban Quản lý di tích thực hiện
các hoạt động bảo tồn di tích; tham gia đón tiếp khách tham quan; làm hoạt động
du lịch cộng đồng theo quy định của nhà nước đặt ra (Có thể tham khảo kinh
nghiệm gắn vai trò của người dân với di sản văn hóa tại khu thắng cảnh thác Bản
Giốc, tỉnh Cao Băng).
Bốn là, Huy động các nguồn lực từ phía các cá nhân,
cộng đồng, doanh nghiệp trong việc xây dựng đời sống văn hóa gắn với phong trào
xây dựng nông thôn mới tại địa bàn các xã có di sản bãi đá cổ. Trong đó, tranh
thủ nguồn lực tài chính vào hoạt động bảo vệ và phát huy giá tri di sản ký ức
này.
Kết luận: Bảo vệ và phát huy giá trị khu di sản văn
hóa ký ức bãi đá cổ Sa Pa là việc làm cần thiết hiện nay, bởi trên thực tế đây
là khu di sản có giá trị to lớn về mặt lịch sử, văn hóa, khoa học, thẩm mỹ - mỹ
thuật. Những giá trị ẩn chứa trong các ký tự khắc vạch trên các phiến đá đến
nay đã được nhiều nhà nghiên cứu ở các lĩnh vực khác giải mã, song kết quả chưa
thỏa đáng. Dưới góc độ quản lý, chính quyền địa phương và cộng đồng đã chung
tay cung bảo vệ và khai thác giá trị của di sản đặc thù này. Tuy nhiên, trong
quá trình quản lý tại khu di sản vẫn còn bộc lộ những tồn tại cần khắc phục. Từ
đó, tác giả bài viết đã nêu và bàn luận các vấn đề có tính chất trao đổi với
mục đích góp phần bảo vệ và phát huy tốt hơn giá trị của di sản bãi đá cổ Sa
Pa, đặc biệt là gắn với việc khai thác hoạt động du lịch tại địa phương.
Tài
liệu tham khảo
1. Sở Văn hóa và Thông tin - Công ty Tu bổ Di tích
và Thiết bị văn hoá Trung ương(2005), Dự án “Bảo tồn, tôn tạo Khu chạm khắc bãi
đá cổ Sa Pa”, Hà Giang.
2. Nguyễn Thành (2005), Bãi đá cổ Sa Pa có nguy cơ
bị biến dạng, báo Tiền Phong đăng ngày 08 tháng 12 năm 2005.
3. UBND tỉnh Lào Cai (1998), Quyết định số
322/1998/QĐ-UBND về việc thu phí tham quan du lịch bãi đá cổ và khu thác bạc -
Sa Pa, Lào Cai.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét