CAO XUÂN HẠO
Từ
những thập kỷ đầu của thế kỷ XX trở về trước, người châu Âu thường yên trí rằng
mình dùng thứ chữ viết hợp lý nhất, khoa học nhất, tiến bộ nhất. Vì thứ chữ ABC
của họ là thứ chữ ghi âm. Năm 1897, Hội ngữ âm học quốc tế ra đời cùng với bảng
chữ cái gọi là Tự mẫu phiên âm quốc tế - International Phonetic Alphabet (IPA),
được coi là lý tưởng của lối chữ ghi âm. Trong mấy thập kỷ kế theo, người ta
thi nhau lên án những cái "bất hợp lý" trong hệ thống chính tả của
những thứ tiếng như tiếng Pháp và tiếng Anh ("phát âm một đàng viết một
nẻo") và những đề án cải cách chính tả thi nhau lần lượt ra đời.
Thế
nhưng gần một trăm năm đã qua, mà không có một đề nghị nhỏ nào trong các đề án
đó được thực hiện.
Thật
là may, vì đó là một việc không thể làm được, và không nên làm một chút nào.
Niềm tự hào ấu trĩ về lối viết ABC cũng như những cáo trạng ồn ào về tính
"bất hợp lý" của chính tả Pháp, Anh và những đề nghị cải cách chữ
viết đủ kiểu đều xuất phát từ một sự lầm lẫn thô thiển: lúc bấy giờ người ta
chưa hiểu cho lắm là chữ viết có chức năng gì trong đời sống và trong nền văn
minh, và nó cần phải như thế nào mới làm tròn được chức năng ấy ở mức tối ưu.
Kể
từ những năm 30 trở đi, sau những công trình của Trường ngữ học Prague nêu rõ
những chức năng và yêu cầu của ngôn ngữ viết khiến cho nó khác với ngôn ngữ
nói, những tiếng kêu gào trước kia dần dần im lặng, và chẳng còn mấy ai buồn
nhắc đến nữa.
Người
ta đã hiểu rằng không có lấy chút cơ sở khoa học nào để khẳng định rằng chữ
viết ghi âm là "khoa học nhất", và thứ chính tả lý tưởng là
"phát âm thế nào viết thế ấy".
Kịp
đến thập kỷ 70, những bước tiến lớn của ngành ngữ học và những phát hiện của âm
vị học về khái niệm "tổ hợp âm" càng khiến cho các định kiến cũ lộ
hết tính chất vô căn cứ của nó.
Số
là ở phương Tây người ta nhận thấy có một số trẻ em không sao học đánh vần
được, và do đó học mãi cũng vẫn không biết viết. Số này rất ít, nhưng không ít
đến mức có thể bỏ mặc làm ngơ, nó chiếm khoảng 0,01% đến 0,02% số trẻ em ở lứa
tuổi học tiểu học. Nghĩa là trong một triệu em có khoảng từ một ngàn hai đến
hai ngàn em như thế. Người ta gọi "chứng bệnh" này là alexia (chứng
không đọc chữ được) hay dislexia (chứng mất khả năng đọc chữ). Những em này
thường được coi là "khuyết tật" hay thậm chí "quá đần độn"
không hy vọng gì trở thành người có chút ít học thức được.
May
thay, có những nhà ngữ học nảy ra cái ý nghi ngờ rằng nguyên nhân của tình
trạng này không phải ở các em, mà chính là ở lối viết ABC. Năm 1978, một nhóm
ngữ học Mỹ quyết định làm một cuộc thí nghiệm. Họ mở một số lớp gồm toàn trẻ em
"khuyết tật" mắc chứng alexia và dạy chương trình tiểu học cho chúng
bằng chữ Hán (xin bạn đọc hiểu đúng cho: dĩ nhiên các em ấy học tiếng Anh và
học các môn khác bằng tiếng Anh, nhưng các từ tiếng Anh đều được viết bằng chữ
Hán. Chẳng hạn, câu He came to a high mountain được viết bằng sáu chữ Hán là
"Tha đáo cập nhất cao sơn"). Sau năm đầu, các em đọc và viết được
1600 từ đơn, và về khả năng hấp thu tri thức, chúng tỏ ra không "đần
độn" chút nào, mà kết quả học tập của chúng lại có phần trội hơn các em
học tiểu học bằng chữ ABC.
Người ta hiểu ra rằng các em này chẳng phải có khuyết tật gì, chẳng qua trong não của chúng hình như công năng của bán cầu bên phải (tri giác tổng hợp) trội hơn công năng của bán cầu bên trái (tri giác phân tích) cho nên chỉ nhận dạng được chữ Hán vốn có hình thể đặc trưng rất rõ, mà không tách được các từ ra từng âm tố - từng chữ cái.
Người ta hiểu ra rằng các em này chẳng phải có khuyết tật gì, chẳng qua trong não của chúng hình như công năng của bán cầu bên phải (tri giác tổng hợp) trội hơn công năng của bán cầu bên trái (tri giác phân tích) cho nên chỉ nhận dạng được chữ Hán vốn có hình thể đặc trưng rất rõ, mà không tách được các từ ra từng âm tố - từng chữ cái.
Ðể
hiểu rõ hơn hiện tượng này, ta hãy xét qua cơ chế của việc đọc chữ. Khi đọc,
người biết chữ thành thục không hề đánh vần. Họ nhận ra các từ ngữ qua diện mạo
chung của chúng, không khác gì ta nhận ra một vật, một người quen không phải
bằng cách lần lượt nhận ra từng chi tiết (mắt, rồi mũi, rồi miệng, rồi tai ...)
mà nhận ra ngay tức khắc toàn thể diện mạo của vật hay người đó. [1]
Trong
tâm lý học hiện đại, khái niệm "diện mạo tổng quát" này được gọi là
Gestalt. Cái Gestalt này càng gọn ghẽ (prégnant) bao nhiêu thì việc nhận dạng
"tức khắc" càng dễ dàng và tự nhiên bấy nhiêu. Về phương diện này,
chữ Hán hơn hẳn chữ Tây. Mỗi chữ Hán là một Gestalt tuyệt hảo, trong khi cái
chuỗi chữ cái La-Tinh chắp thành một hàng dài không làm thành một hình ảnh có
thể nhận diện dễ dàng trong một chớp mắt như chữ Hán. Ta thử so sánh cách viết
mấy từ sau đây, trong cách viết bằng chữ Hán được đặt cạnh cách viết bằng chữ
Tây (ABC)*.
Không
có gì đáng lấy làm lạ nếu sách chữ Tây rất khó đọc theo cách "Nhất mục
thập hàng" như sách chữ Hán.
Có
khá nhiều người Việt nghĩ đến những ai đã đem chữ "Quốc ngữ" thay cho
chữ Hán, chữ Nôm với một lòng biết ơn sâu xa, cho rằng việc đó đã đưa nước ta
tiến vào hiện đại. Nghĩ như thế tôi e có phần vội vàng. Chẳng lẽ sự tiến bộ
củaTrung Quốc, Nhật Bản, Ðài Loan, Hương Cảng, Ðại Hàn, Singapore không đủ để
chứng minh sự sai trái của ý nghĩ đó hay sao?
Năm
1985, trong một cuốn sách nổi tiếng, cuốn Le nouveau monde sinisé (Thế giới Hán
hóa ngày nay), Léon Vandermeersch [2] khẳng định rằng sở dĩ những "con
rồng" nói trên thành rồng được chính là vì họ vẫn dùng chữ Hán [3] . Chỉ
còn một nước chưa thành rồng được: Việt Nam. Nước này đã bỏ mất chữ Hán mà
trước kia nó đã từng dùng Dĩ nhiên, ta có thể không đồng ý với học giả này,
nhưng khó lòng có thể nói rằng đó là một chuyện hoàn toàn ngẫu nhiên.
Chữ
ABC đối với đa số quả có một ưu điểm lớn là học rất nhanh. Muốn đọc chữ ABC chỉ
cần học vài tháng, trong khi muốn viết 1200 chữ Hán thông dụng thôi đã phải mất
một năm. Ưu điểm đó khiến cho chữ "quốc ngữ" đắc dụng trong thời Pháp
thuộc, khi mà người ta cần thanh toán việc học đọc học viết tiếng mẹ đẻ cho
nhanh để chuyển sang học chữ Pháp và tiếng Pháp. Nó cũng đắc dụng trong thời
kháng chiến, khi cần thanh toán mù chữ cho thật nhanh để còn lo đánh giặc.
Nhưng
trong hoàn cảnh độc lập, trong hòa bình, trong sự nghiệp xây dựng văn hóa, cái
ưu thế này không còn lớn như trước nữa. Trong những điều kiện bình thường, dành
vài ba năm tiểu học cho việc học chữ (đồng thời các môn khác), không phải là
một việc gì quá phí phạm. Tốc độ và chất lượng giảng dạy ở các trường tiểu học,
trung học và đại học ở Trung Quốc, Nhật Bản, Ðài Loan, Hương Cảng, Singapore
không hề kém so với các nước dùng chữ Tây, trong đó có Việt Nam.
Trong hoàn cảnh lịch sử của nước ta còn có một điều làm cho chữ "quốc ngữ" đâm ra có vẻ ưu việt đặc biệt: đó là sự tồn tại của chữ Nôm hồi bấy giờ. Trước khi có chữ "quốc ngữ", ông cha ta dùng chữ Nôm để viết tiếng mẹ đẻ. Mà chữ Nôm thì khó hơn chữ Hán rất nhiều (theo một chuyên gia Hán Nôm, nó khó gấp 5 lần). Chính nhờ sự tương phản với thứ chữ phức tạp, khó học ấy mà chữ "quốc ngữ" có vẻ như "tiện"hơn hẳn.
Trong hoàn cảnh lịch sử của nước ta còn có một điều làm cho chữ "quốc ngữ" đâm ra có vẻ ưu việt đặc biệt: đó là sự tồn tại của chữ Nôm hồi bấy giờ. Trước khi có chữ "quốc ngữ", ông cha ta dùng chữ Nôm để viết tiếng mẹ đẻ. Mà chữ Nôm thì khó hơn chữ Hán rất nhiều (theo một chuyên gia Hán Nôm, nó khó gấp 5 lần). Chính nhờ sự tương phản với thứ chữ phức tạp, khó học ấy mà chữ "quốc ngữ" có vẻ như "tiện"hơn hẳn.
Giá
hồi ấy ông cha ta không sáng tạo ra chữ Nôm, mà cứ dùng chữ Hán để viết cả văn
Hán lẫn quốc văn như người Nhật Bản đã làm (và hiện nay vẫn làm), nghĩa là mỗi
chữ có hai cách đọc, Hán âm (Kan-on) và Quốc âm (Go-on) [4] , thì tình hình có
lẽ đã khác.
Tiếng
Nhật là tiếng đa âm tiết; thế mà người Nhật vẫn dùng được chữ Hán (Kanji) cho
hầu hết các văn bản, tuy thỉnh thoảng có thêm như chữ Kana (ghi từng âm tiết)
cho các phụ tố (như no: chỉ sinh cách, de chỉ vị cách , ni chỉ tặng cách v.v.).
Nhưng nếu vậy làm sao người đọc biết được một chữ nào đó cần được đọc theo Hán
âm hay theo quốc âm? Chẳng hạn nếu viết , làm sao biết lúc nào đọc là sơn, lúc
nào đọc là núi? Trong đa số trường hợp, văn cảnh sẽ mách cho ta biết. Chẳng hạn
nếu thấy viết 高山上
ta sẽ biết phải đọc là cao sơn thượng, còn nếu thấy 上山高, ta sẽ biết đó là trên núi cao, trừ phi có những lý do khác
không cho phép đọc như vậy. Nếu cần, có thể dùng một vài dấu phụ. Kinh nghiệm
hàng chục thế kỷ dùng chữ Hán để viết tiếng Nhật ít ra cũng chứng minh được
rằng lối viết nói trên có thể dùng một cách có hiệu quả. Tiếng Nhật, vốn là
ngôn ngữ chắp dính (agglutinating) đa tiết, đã dùng được chữ Hán như vậy, thì
tiếng Việt, vốn cùng loại hình đơn lập như tiếng Hán, lại càng dễ dùng chữ Hán
hơn.
Tiếng
Việt có một cấu trúc ngữ âm khác hẳn các thứ tiếng châu Âu. Trên hơn 320 trang
sách, người viết mấy dòng này đã chứng minh rằng âm vị học của phương Tây (vốn
là nền tảng lý thuyết của cách viết ABC) không thể đem ứng dụng để nghiên cứu
và phân tích những thứ tiếng đơn lập như tiếng Hán, tiếng Việt hay những thứ
tiếng chắp dính như tiếng Nhật, hay những thứ tiếng "có sườn phụ âm"
như tiếng A Rập, tiếng Do Thái v.v. Nó chỉ có giá trị và hiệu lực đối với các
ngôn ngữ biến hình. Việc phân tách mỗi tiếng (âm tiết) ra thành nhiều âm tố
(speech sound), rồi thành nhiều âm vị (phonems), là một hiện tượng kỳ quặc chỉ
có thể có với một cấu trúc ngữ pháp trong đó mỗi tiếng có thể gồm hai ba yếu tố
có nghĩa (chẳng hạn, từ shla trong tiếng Nga (1 âm tiết) gồm có ba hình vị (ba
yếu tố có nghĩa): sh có nghĩa là "đi", l có nghĩa "quá khứ",
a có nghĩa "giống cái." [5]
Từ đó ta có thể thấy rõ rằng chữ viết ABC, vốn phản ánh cái cấu trúc ấy, khó lòng thích hợp với tiếng Việt và cách tri giác của người Việt đối với tiếng mẹ đẻ của họ. Tiếng Việt (và khá nhiều thứ tiếng khác ở Việt Nam), tiếng Hán, tiếng Nhật, tiếng Hàn, tiếng Thái, tiếng Lào, tiếng Myanmar, tiếng Malagasy (Madagascar), tiếng Mixteko, tiếng Mazateco, v.v. là những ngôn ngữ âm tiết tính, trong đó âm tiết là một đơn vị có cương vị ngôn ngữ học minh xác, lại không thể phân tích ra thành những "âm tố" có cương vị tương đương, trong khi trong các thứ tiếng châu Âu chính âm tố mới có cương vị của những đơn vị ngôn ngữ ("âm vị") còn âm tiết lại không có cương vị ngôn ngữ học gì. Không phải ngẫu nhiên mà châu Âu chính là nơi phát minh ra chữ viết ABC. Và sở dĩ thứ chữ này được phổ biến ra khắp thế giới, khônh phải vì một nguyên nhân ngôn ngữ học, mà chính là vì địa vị thống trị của các nước đế quốc chủ nghĩa ở châu Âu.
Từ đó ta có thể thấy rõ rằng chữ viết ABC, vốn phản ánh cái cấu trúc ấy, khó lòng thích hợp với tiếng Việt và cách tri giác của người Việt đối với tiếng mẹ đẻ của họ. Tiếng Việt (và khá nhiều thứ tiếng khác ở Việt Nam), tiếng Hán, tiếng Nhật, tiếng Hàn, tiếng Thái, tiếng Lào, tiếng Myanmar, tiếng Malagasy (Madagascar), tiếng Mixteko, tiếng Mazateco, v.v. là những ngôn ngữ âm tiết tính, trong đó âm tiết là một đơn vị có cương vị ngôn ngữ học minh xác, lại không thể phân tích ra thành những "âm tố" có cương vị tương đương, trong khi trong các thứ tiếng châu Âu chính âm tố mới có cương vị của những đơn vị ngôn ngữ ("âm vị") còn âm tiết lại không có cương vị ngôn ngữ học gì. Không phải ngẫu nhiên mà châu Âu chính là nơi phát minh ra chữ viết ABC. Và sở dĩ thứ chữ này được phổ biến ra khắp thế giới, khônh phải vì một nguyên nhân ngôn ngữ học, mà chính là vì địa vị thống trị của các nước đế quốc chủ nghĩa ở châu Âu.
Hiện
nay tất cả các khách du lịch đến nước ta đều kinh ngạc trước tình trạng người
Việt không đọc được những dòng chữ đề trên các đền đài và di tích lịch sử. Họ
nói "Các ngài là những người mù chữ ngay trên đất nước mình". Nạn mù
chữ Hán cũng là cội nguồn của việc hiểu sai các từ Việt gốc Hán. Cũng như người
Pháp không thể giỏi tiếng Pháp nếu không biệt tiếng La Tinh, người Việt Nam
cũng không thể giỏi tiếng Việt nếu không biết chữ Hán, thứ chữ đã từng được
dùng để viết hơn 70% số từ của tiếng Việt, những từ mà ngày nay vẫn được dùng
với một tần suất rất cao.
Việc
học chữ Hán không thể không được đưa vào chương trình trung học.
Ngày
nay nhiều người, trong đó có cả những nhà ngữ học phương Tây, đã thấy rõ những
ưu điểm lớn lao của chữ Hán. Có người còn tiên đoán rằng chỉ vài ba mươi năm
nũa, cả thế giới sẽ nhất loạt dùng chữ Hán để viết tiếng mẹ đẻ của từng dân tộc
(theo họ, đến lúc ấy các hàng rào ngôn ngữ - barrières linguistiques - xưa nay
vẫn ngăn cách các dân tộc, sẽ bị vô hiệu hoá, và đến lúc ấy nhân loại sẽ giao
tiếp với nhau dễ dàng gấp trăm lần so với hiện nay.quay lại với chữ Hán. Việc
từ bỏ chữ Hán để chuyển sang chữ Tây là một sự kiện không còn hoán cải được nữa
rồi. Nhưng, cũng như một trận hồng thủy, những tác hại của nó có thể khắc phục
được: ta còn có thể học và nghiên cứu chữ Hán như một di sản của văn hoá dân
tộc, và do đó mà bảo tồn một truyền thống quý giá đi đôi với những nghệ thuật
cao cả như thư pháp, vốn là tài sản chung của các dân tộc Viễn Ðông và có thể
làm thành một mối dây liên lạc giữa các dân tộc rất gần gũi nhau về văn hoá
này.
(Kiến
thức ngày nay số 14, 15-6-1994) [6]
Chú
thích:
[1] Do đó, lối học đọc thông qua "đánh vần" là một cách làm sai trái
ngay từ nguyên lý. Bây giờ trên thế giới không còn mấy nơi dùng cách học này.
[2]
Hiện nay là Giám đốc Trường Viễn Đông Bác Cổ (École francaise d´Extrême-Orient-
trước đây ở Hà NộI, bây giờ ở Paris).
[3]
Léon Vandermeersch 1985, Le nouveau monde sinisé. Paris: Seuil.
[4]
Chẳng hạn, cách đọc Kan-on của chữ SƠN…* là [san], còn Go-on là [yama].
[5]
Cao Xuân Hạo 1985, Phonologie et linéarité. Réflexions critiques sur les
postulats de la phonologie contemporaine. Paris: SELAF.
[6]
Sau khi KTNN đăng bài này, toà soạn có nhận đưọc nhiều ý kiến phản đối tác giả,
trong đó có một bức thư viết: "... hình như ông Hạo học quá nhiều thứ
vô bổ cho nên quên mất thứ quan trọng nhất: đạo làm người. Một người đã đưa
nước Việt Nam từ cõi man rợ đến ánh sáng văn minh rực rỡ của châu Âu như
Alexandre de Rhodes mà ông nỡ quên ơn thì thử hỏi ông đi học bấy nhiêu năm để
làm gì?"
Hoá ra công ơn của ông A.de Rhodes là thế. Tác giả bức thư không biết rằng vị thừa sai này tuyệt nhiên không góp một chút gì vào quá trình xây dựng chữ quốc ngữ (từ đầu đến cuối, đó là công sức của các giáo sĩ Bồ Ðào Nha, như những tài liệu mới công bố sau này đều xác nhận). Vả lại nước ta không thể coi là một nước "man rợ" trước khi có chữ "quốc ngữ", và việc Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản và hàng trăm nuớc khác không la tinh hoá chữ viết mà vẫn tiến nhanh hơn ta nhiều, cũng cho thấy rằng cái "ơn" của thứ chữ này không lớn đến mức ấy.
Hoá ra công ơn của ông A.de Rhodes là thế. Tác giả bức thư không biết rằng vị thừa sai này tuyệt nhiên không góp một chút gì vào quá trình xây dựng chữ quốc ngữ (từ đầu đến cuối, đó là công sức của các giáo sĩ Bồ Ðào Nha, như những tài liệu mới công bố sau này đều xác nhận). Vả lại nước ta không thể coi là một nước "man rợ" trước khi có chữ "quốc ngữ", và việc Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản và hàng trăm nuớc khác không la tinh hoá chữ viết mà vẫn tiến nhanh hơn ta nhiều, cũng cho thấy rằng cái "ơn" của thứ chữ này không lớn đến mức ấy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét