Hình
bát tiên tại Huế. Từ
trái sang:
1. Hán Chung Li ngồi ngoài cùng mé trái,
phanh ngực với chiếc quạt dưới mông. 2. Lã Động Tân mặc áo đạo bào màu xanh,
tay cầm phất trần. 3. Tào Quốc Cữu là người mặc áo trắng,
tay cầm thẻ bài. 4. Trương Quả Lão áo vàng đang ngồi,
râu bạc và tay cầm ngư cổ. 5. Lam Thái Hòa ở đây là cô gái mặc xiêm
y đỏ, mang theo lẵng hoa. 6. Thiết Quải Lý mặc áo xanh đang ngồi,
tay trái cầm thiết trượng. 7. Hàn Tương Tử là người ngồi thổi sáo mé
bên phải. 8. Hà Tiên Cô là cô gái đứng ngoài cùng mé
bên phải.
Trước khi đi vào vấn đề chính của bài viết, xin
nói qua một chút về tình hình Đạo giáo ở Trung Quốc, kể cả ở Việt Nam được
hiểu như là ngọn nguồn từng mang lại nhiều cảm hứng cho giới cầm bút nước ta
trong quá khứ.
Ở Trung Quốc, theo chỗ được biết, Đạo giáo bắt đầu
định hình dưới cái tên gọi đầy thô mộc - đạo "năm đấu gạo" - vào
đầu thế kỷ 2, trên cơ sở tín ngưỡng thần tiên (1) và phương thuật (2)
dã xuất hiện từ lâu trước đó. Dần về sau, tôn giáo này đã tách thành hai
phái: một phái nghiêng về bùa chú (phù lục 符 錄) mà ta có thể gọi là "Đạo giáo phù thủy" do Trương Đạo Lăng(3)
khởi xướng, và một phái nghiêng về tu tiên luyện đan (đan đỉnh 丹 鼎) mà ta có thể gọi là "Đạo
giáo thần tiên" do Cát Hồng(4) đại diện. Phái "Phù
thủy" còn có cái tên là "Chính nhất 正 一", chủ trương dùng phép thuật để trừ tà trị bệnh; phái này phát
triển mạnh ở phương Nam (Nam Thiên đạo sư), đặc biệt là trong dân gian, với
những Đạo sĩ không cần xuất gia. Phái "thần tiên" còn có tên là
"Toàn chân 全 真, chủ
trương tu tiên, luyện đan để kéo dài tuổi thọ tới mức "trường sinh bất
tử"; phái này phát triển mạnh ở phương Bắc (Bắc Thiên đạo sư), chủ yếu
trong giới thượng lưu, với những Đạo sĩ, Đạo cô sẵn sàng rời gia đình để rong
du ngoài cõi...
Ở Việt Nam, những hiện tượng liên quan tới Đạo
giáo được ghi lại không ít trong Lý hoặc luận(5) của Mâu Tử
hoặc An Nam chí lược(6) của Lê Trắc. Nhiều Đạo sĩ tên tuổi
còn truyền mãi tận ngày nay: Thông Huyền(7), Hoàn Nguyên(8),
Huyền Vân (9)v.v. Đặc biệt sách Kê song xuyết thập 雞 窗 綴 拾 mà hậu thân của nó là Hội chân biên 會 真 編 (10)
đã lên một danh mục gồm 27 vị "tiên Việt Nam" qua 25 truyền thuyết
Đạo giáo, trong đó có 13 tiên ông và 14 tiên nữ, với các Đạo tổ, Chân nhân,
Thánh mẫu, Tiên nương, Tiên tử...(11). Có thể thấy Đạo giáo đã du
nhập vào Việt Nam từ rất sớm, được người nước ta tiếp thu theo cách thức
riêng của mình và dần dần trở thành một bộ phận khăng khít trong truyền thống
văn hóa dân tộc.
Đối với tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, Đạo giáo đã
có những ảnh hưởng không phải không sâu sắc. Dễ dàng nhận thấy dấu ấn của nó
ở các sách như Việt điện u linh với các truyện: Thái úy trung tuệ Vũ Lượng công; Ứng thiên hóa dục nguyên trung hậu thổ địa kỳ nguyên quân; Quảng Lợi
thánh hựu uy tế phu ứng đại vương; Tản Viên hựu thánh khuông quốc hiển ứng
đại vương; Thiện hộ linh ứng chương vũ quốc công; Lợi tế linh thông huệ tín
đại vương...; Nam ông mộng lục với các truyện: Tăng đạo thần thông; Tấu chương minh
nghiệm; Áp lãng Chân nhân; Lĩnh Nam chích quái với: Hồng Bàng thị truyện; Ngư Tinh truyện;
Hồ Tinh truyện; Mộc Tinh truyện; Tân Lang truyện; Nhất Dạ Trạch truyện; Đổng
Thiên Vương truyện; Việt Tỉnh truyện; Truyền kỳ mạn lục với: Trà Đồng giáng đản lục; Long Đình đối
tụng; Từ Thức tiên hôn lục; Phạm Tử Hư du Thiên Tào lục; Na Sơn tiều đối lục...;
Truyền kỳ tân phả với: Vân Cát thần nữ lục; Bích Câu kỳ ngộ; Thánh
Tông di thảo với: Mai Châu yêu nữ
truyện; Thiềm thừ miêu duệ ký; Nhị nữ thần truyện; Hoa Quốc kỳ duyên; Ngư gia
chí dị; Dương phu truyện; Trần nhân
cư Thủy Phủ; Lãng Bạc phùng tiên; Mộng ký; Thử Tinh truyện; Nhất thư thủ thần
nữ...; Đào hoa mộng ký, v.v.(12).
Ảnh hưởng của Đạo giáo đối với số tiểu thuyết chữ
Hán Việt Nam kể trên, nhất là loại tiểu thuyết truyền kỳ, chí quái chủ yếu
thể hiển trên ba mặt: cấu trúc tác phẩm, xây dựng nhân vật, thiết kế môi trường.
1. Cấu trúc tác phẩm:
Hãy lấy truyện Từ Thức tiên hôn lục trong
Truyền kỳ mạn lục làm một thí dụ. Có thể bóc tách truyện này ra thành mấy
yếu tố như sau:
- Từ Thức trẩy hội xem hoa mẫu đơn.
- Giúp một thiếu nữ thoát nạn.
- Đến cõi tiên, lấy vợ tiên.
- Nhớ nhà, rời tiên cảnh và không bao giờ còn trở
lại được nữa.
Các yếu tố vừa nêu cùng trật tự sắp xếp của chúng
tương ứng với một hệ thống ý nghĩa nằm ở tầng sâu tác phẩm:
- Người sống trong nghịch cảnh cảm thấy thiếu thốn
một cái gì đó hoặc về vật chất, hoặc về tình cảm, hoặc về tinh thần.
- Nhờ vào ngoại lực để đạt nguyện vọng.
- Sau một lịch trình gian khổ, nguyện vọng được
thỏa mãn tối đa.
- Hạnh phúc bị tuột mất.
Kiểu cấu trúc này rất gần gũi với kiểu cấu trúc
của truyền thuyết Đạo giáo Hoàng Sơn Chân nhân trong Kê song xuyết
thập, sau được chép lại ở Hội chân biên:
"Hoàng Sơn Chân nhân người Hóa Châu, họ Từ
tên Thức, làm Tri huyện Tiên Du vào khoảng năm Quang Thái đời Trần Thuận
Tông. Bấy giờ tại một ngôi chùa nổi tiếng thuộc huyện bên đang mở hội xem
hoa, ngựa xe chen chúc. Dưới khóm mẫu đơn có một thiếu nữ tinh nghịch, với
tay kéo mấy cành hoa, không may làm rụng vài đóa, bị người trông coi bắt giữ.
Vừa lúc ấy Từ Thức đến, ông bèn cởi chiếc áo cừu của mình ra để chuộc lỗi cho
cô gái. Họ Từ vốn thích cảnh núi sông. Làm quan chưa bao lâu, ông xin từ chức
để rong chơi miền Tống Sơn, Nga Sơn... Rồi một hôm không hẹn mà tới động Bích
Đào, vách núi sừng sững. Họ Từ làm một bài thơ định đề lên vách động. Bỗng
cửa động mở, một tiểu đồng bước ra mời ông vào. Họ Từ hỏi duyên do. Qua lời
tiểu đồng, ông mới hay cô gái gặp ở hội hoa dạo trước chính là Giáng Hương,
vị tiên nữ ở động này. Lưu lại đây một thời gian, họ Từ đắc đạo (...). Ông
rời động tiên đến Hoàng Sơn thuộc huyện Nông Cống, rồi không rõ đi
đâu..."
Nếu gọi cấu trúc câu chuyện nằm trên bề nổi của
truyền thuyết Đạo giáo là mô típ bản sự (tức bản thân sự việc, câu
chuyện nguyên mẫu) và cấu trúc ý nghĩa nằm dưới tầng sâu của truyền thuyết
Đạo giáo là mô típ bản ý (tức tư tưởng Đạo giáo, chủ đề nguyên mẫu),
thì Từ Thức tiên hôn lục chỉ khác Hoàng Sơn Chân nhân về mô típ
bản sự, còn mô típ bản ý thì vẫn giữ nguyên. Hay nói rộng ra, khi một truyền
thuyết Đạo giáo được chuyển hóa thành tiểu thuyết, mô típ bản sự thường khả
biến, còn mô típ bản ý thì lại tương đối ổn định.
Để làm sáng tỏ điều này, ta thử phân tích thêm một
tác phẩm tiểu thuyết chữ Hán nữa: truyện Bích Câu kỳ ngộ trong
Truyền kỳ tân phả.
Khi còn ở dạng truyền thuyết Đạo giáo, câu chuyện
được ghi lại như sau:
"An Quốc Chân nhân họ Trần tên Uyên, người
thôn Thịnh Quang. Sau khi cha mất, nhà nghèo, ông tìm tới gò đất Kim Quy
thuộc phường Bích Câu làm một thư phòng để ở. Sau khi đến chơi chùa Ngọc Hồ,
gặp một thiếu nữ áo hồng đi qua rồi bỗng dưng biến mất. Ông biết là thần tiên
có ý trêu mình đây, bèn phất tay áo trở về. Từ đó, những khi học hành rỗi
rãi, ông thường ao ước được gặp lại người đẹp thuở xưa. Chợt một hôm người
thiếu nữ kia giáng xuống trước sân nhà, hình dáng vẫn y như ngày nọ. Ông vồn
vã đón chào. Thiếu nữ nói: "Em là Hà Giáng Kiều, tiên ở Nam Nhạc. Vì
chàng có duyên với đạo, đáng truyền cho bí quyết luyện đan, nên em vâng lệnh
đến đây để giúp chàng". Ông vui mừng theo học, được ba năm thì đắc đạo.
Bấy giờ có hai con hạc trắng ngậm thư bay tới đón ông cùng vợ và con trai là
Trân cưỡi hạc bay lên trời giữa ban ngày..." (xem Hội chân biên,
Q. Càn, An Quốc Chân nhân và Q. Khôn, Giáng Kiều tiên tử.
Truyền thuyết Đạo giáo này nguyên được chép ở Bích Câu đạo quán lục).
Sang tiểu thuyết truyền kỳ Bích Câu kỳ ngộ,
mô típ bản sự của truyền thuyết Đạo giáo trên đã từ 2 đơn nguyên phát triển
thành 3 đơn nguyên:
Đơn nguyên 1:
- Tú Uyên trẩy hội Vô Già.
- Gặp một thiếu nữ xinh đẹp.
- Hai bên trò chuyện rất ý hợp tâm đầu.
- Người đẹp bỗng dưng biến mất.
Đơn nguyên 2:
- Tú Uyên nhớ nhung.
- Thần đền Bạch Mã giúp kế.
- Tú Uyên kết duyên cùng Giáng Kiều.
- Giáng Kiều bỏ chàng về trời.
Đơn nguyên 3:
- Tú Uyên nhớ vợ, sầu đau.
- Thần Bạch Mã lại giúp kế.
- Giáng Kiều trở lại chốn nhân gian với chồng.
- Hai vợ chồng và con cùng về cõi tiên.
Trong khi đó thì mô típ bản ý, qua 3 lần khát
khao, 3 lần thỏa mãn... đều vẫn vậy, không ra ngoài chủ đề tư tưởng Đạo giáo,
một phái sinh của Đạo Lão, coi cảnh đời như mây nổi, có đấy rồi không đấy,
hết hợp lại tan, hết tan lại hợp, chỉ có cõi tiên mới đạt tới hạnh phúc vĩnh
hằng...
Ở không ít tiểu thuyết chữ Hán khác, phần mô típ
bản sự ở truyền thuyết Đạo giáo còn được nhào nặn lại, làm cho cấu trúc tác
phẩm trở nên rối rắm hơn, nhiều tầng bậc hơn, trật tự các yếu tố Đạo giáo
thậm chí còn được dàn dựng lại hoặc xử lý theo kiểu khác, cốt giảm nhẹ màu
sắc tôn giáo, tăng thêm ý vị văn học.
2. Xây dựng nhân vật:
Ảnh hưởng của Đạo giáo đối với tiểu thuyết chữ Hán
Việt Nam còn thể hiện trong việc xây dựng hình tượng nhân vật. Sách Đạo giáo
chép: "Kìa như người tiên, lấy thuốc để dưỡng sinh, lấy thuật số để kéo
dài tuổi thọ, khiến cho bên trong bệnh tật không phát sinh, bên ngoài tai nạn
không xâm nhập, tuy sống lâu không chết mà thân hình vẫn trẻ mãi như xưa, nếu
biết đạo thuật thì chẳng có gì là khó" (Bão Phác Tử nội thiên. Luận
tiên)(13) . Hoặc chép: "Người tiên có kẻ thót lên mây,
không cánh vẫn bay được; có kẻ cưỡi rồng mây đến cõi trời; có kẻ bay lượn
trên danh sơn; có kẻ ăn nguyên khí; có kẻ nhá cỏ chi; có kẻ tới lui cõi nhân
gian mà không người biết; có kẻ tàng ẩn thân hình nên chẳng ai hay" (Thần
tiên truyện. Bành Tổ truyện)(14). Đây là phát triển những ý cơ
bản vốn có trong thiên Tiêu dao du ở sách Trang Tử khi nói về
đặc điểm của Chân nhân: "Không ăn ngũ cốc, chỉ hít gió uống sương, cưỡi
rồng mây mà rong chơi ngoài bốn biển" (Bất thực ngũ cốc, hấp phong ẩm
lộ, thừa vân khí, ngự phi long nhi du hồ tứ hải chi ngoại). Nói rút lại, thần
tiên có hai đặc trưng, một là trường sinh bất tử, và hai là thần thông quảng
đại, phép thuật cao cường. Hai đặc trưng đó của Đạo giáo khi vào tiểu thuyết,
được thể hiện qua hai loại hình tượng nhân vật: thần tiên trần tục hóa và
người tục thần tiên hóa.
a. Thần tiên trần tục hóa như Giáng Hương
(Truyền kỳ mạn lục. Từ Thức tiên hôn lục), Nữ thần (Thánh Tông di
thảo. Nhất thư thủ thần nữ), Quỳnh Nương (Truyền kỳ tân phả. Vân
Cát thần nữ), Giáng Kiều (Truyền kỳ tân phả. Bích Câu kỳ ngộ) v.v. Họ
đều thuộc dòng giống thần tiên, người nào cũng phép thuật cao siêu, thần
thông biến hóa. Quỳnh Nương thì: "nói xong, vụt lên trên không đi mất.
Từ đó tung tích như mây nổi lưng trời, không cố định ở đâu cả. Có khi giả làm
gái đẹp thổi ống tiêu ở dưới trăng; có khi hóa thành bà già tựa gậy trúc ở
bên đường". Giáng Kiều thì "vẩy cái cành hoa vẽ ở trong bức tranh,
biến ra thành hai thị nữ, sai sửa soạn cơm nước"... Vì nhiều duyên cớ
khác nhau, họ đến cõi trần làm người thế tục, cũng xây dựng gia đình, cũng
sinh con đẻ cái, cũng có đủ cả bảy thứ tình cảm như những người sống trên
hành tinh của chúng ta vậy.
b. Người tục thần tiên hóa như Đạo sĩ họ La
(Nam Ông mộng lục. áp lãng Chân nhân), Chử Đồng Tử (Lĩnh Nam chích
quái. Nhất Dạ Trạch), Từ Thức (Truyền kỳ mạn lục. Từ Thức tiên hôn
lục), Chu Sinh (Thánh Tông di thảo. Hoa Quốc kỳ duyên), cô gái làng
Thanh Khê (Thánh Tông di thảo. Dương Phu truyện), v.v. Mỗi một nhân
vật như thế, đều có một địa chỉ "xác thực": Đạo sĩ họ La sống trên
một ngọn núi gần cửa biển Thần Đầu; Chử Đồng Tử người hương Chử Xá, con trai
của Chử Vi Vân; từ Thức người Hòa Châu, được bổ làm Tri huyện Tiên Du, v.v.
Nhờ gia công tu luyện, họ đều có phép màu và trở thành tiên cả. Chử Đồng Tử
dựng cây gậy rồi úp chiếc nón lá lên, biến thành lâu đài. Cô gái làng Thanh
Khê sau khi chết, đã trút xác lại và biến thành con ngỗng vàng mỏ ngậm cành
hoa bay lên trời, v.v.
c. Một số nhân vật trong tiểu thuyết chữ Hán Việt
Nam đã thể hiện quan niệm sống chết của Đạo giáo.
Hoặc thể xác và linh hồn đều sống mãi, như vị tiên
thổi địch mà vua Lê Thánh Tông từng gặp ở hồ Lãng Bạc (Thánh Tông di thảo.
Lãng Bạc phùng tiên), hay Đạo Cô ở đình Vọng Nguyệt, núi Tam Đảo (Đào hoa
mộng ký). Họ đã "sống thọ không biết mấy nghìn tuổi, thường cưỡi mây
đạp khói biến hiện vô chừng" (Đào hoa mộng ký).
Hoặc chết đi rồi sống lại theo nguyên hình, hay
chuyển sang một dạng sống khác. Sách Đạo giáo nói: "Uống thuốc kim đan,
làm cho thân thể phân giải là cách tốt nhất, có thể thay đổi tên họ, trở về
quê hương". Hoàng Văn Bào trong Tái sinh sự tích là một nhân vật
gần như vậy. Sau khi chết đi, chàng đầu thai ở một địa phương khác, theo
nguyên hình. Nhưng thường gặp hơn trong tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam là sau
khi chết, hóa thành vật khác. Sách Bão Phác Tử chép: "Thời cổ,
người thành tiên có kẻ mọc cánh trên mình, biến hóa, phi hành, mất hẳn gốc
người, đổi ra hình khác, giống như chim sẻ biến thành con hến vậy". Sách
này còn nói: "Người là giống tối linh, nhưng nam nữ hình dạng khác nhau,
hóa thành hạc, thành đá, thành hổ, thành vượn, thành cát, thành ba ba lại
không phải ít. Đến như núi cao biến thành chằm, hang sâu biến thành gò, đấy
đều là sự biến hóa của các vật lớn". Trong truyện trầu cau ở Lĩnh Nam
chích quái, ba nhân vật Tân, Lang và cô gái họ Lưu sau khi chết, biến
thành cau, vôi và trầu, cũng là để cho mối tình anh em, chồng vợ keo sơn của
họ trở nên vĩnh cửu hóa, theo quan niệm Đạo giáo. Đến đây ta nhớ hai câu thơ
của Bạch Cư Dị trong Trường hận ca: "Thiên trường địa cửu hữu
thời tận; Thử hận miên miên vô tuyệt kỳ". Nhiều truyện trong Truyền
kỳ mạn lục, người sau khi chết biến thành hồn ma để trăng gió với người
đời, hoặc để gặp người yêu, hoặc hóa thành quỷ dữ để báo thù... đều là viết
dưới ảnh hưởng quan niệm sống chết của Đạo giáo. Đến như các truyện Ngư
Tinh, Hồ Tinh, Mộc Tinh... trong Lĩnh Nam chích quái cũng vậy
thôi, khác chăng là ở chỗ chúng thuộc phía nhân vật phản diện. Cho nên Sơn
Nam Thúc khi bình luận về chuyện Chồng dê trong Thánh Tông di thảo
đã viết: "Trong khoảng trời đất, hết thảy giống bay, giống lặn, giống
chạy, giống náu tuy là vật mà không phải là vật. Những giống ấy hoặc là duyên
xưa chưa hết, hoặc vì oán cũ chưa tan, có khi đội lốt để tìm nhau, có khi
thoát hình biến hóa (...) Ta nên lựa tâm xét kỹ, không nên coi giống vật là
vật". Đấy cũng là cách nhìn của Đạo giáo về mặt sống chết, hóa thân.
3. Thiết kế môi trường:
a. Đạo giáo chia không gian hoạt động của con
người ra làm 3 thế giới: "Kìa như sự việc trong trời đất không thể nào
hạn định được. Cứ theo lòng dạ mà suy, trong cõi u hiển có ba bộ phận liên
quan với nhau. Trên là tiên, giữa là người, dưới là quỷ. Người thiện được hóa
thành tiên, tiên bị biếm trích lại trở thành người, người ác bị hóa thành
quỷ, quỷ làm điều phúc lại trở thành người. Quỷ bắt chước người, người bắt
chước tiên, xoay vòng qua lại, cứ vậy mà suy. Đấy là sự cách biệt nho nhỏ
giữa cõi u và cõi hiển" (Đào Hoằng Cảnh: Chân cáo (15).
Tác giả tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam cũng có người quan niệm như vậy:
"Nay ta bảo cho anh biết: trong khoảng trời đất báo ứng luân hồi, chỉ có
hai loại thiện và ác. Người chăm làm thiện, tuy hãy còn sống, tên đã ghi ở Đế
Đình; người hay làm ác, không đợi đến chết, án đã thành ở Địa Phủ"
(Truyền kỳ mạn lục. Phạm Tử Hư du Thiên Tào lục).
Cõi tiên gồm 36 tầng trời, 10 châu, 3 đảo, trong
đó có 10 động thiên lớn, 36 động thiên nhỏ và 72 phúc địa. Trên đất thì là
động tiên (hang động trong núi); trên biển thì là đảo tiên (Bồng Lai, Phương
Trượng). Đây cố nhiên là không gian hư ảo do các tín đồ Đạo giáo tự ý nặn ra,
nhưng nó đã cung cấp đất dụng võ cho tiểu thuyết, nhất là tiểu thuyết truyền
kỳ, chí quái. Nhiều cây bút đã cố sức làm nổi bật vẻ đẹp của cảnh tiên và
hạnh phúc toàn vẹn của cuộc sống thần tiên. Ví dụ cảnh tiên ở cửa bể Thần Phù
trong truyện Từ Thức: "Bám bíu trèo lên thì mỗi bước mỗi thấy rộng rãi.
Lên đến ngọn núi thì bầu trời sáng sủa. Chung quanh toàn là những lâu đài
nguy nga, mây xanh ráng đỏ bám ở lan can, cỏ lạ hoa kỳ nở đầy trước cửa. Sinh
nghĩ nếu không phải là chỗ đền đài thờ phụng, tất là cái xóm của những bậc
lánh đời, như những nơi suối Sậu nguồn Đào chẳng hạn. Rồi chợt thấy có hai
người con gái áo xanh bảo nhau rằng: "Lang quân nhà ta đã đến!"
Đoạn họ chạy vào nhà báo tin, một lúc đi ra nói: "Phu nhân chúng tôi sai
mời chàng vào chơi". Sinh đi theo họ vào, vòng quanh một bức tường gấm,
vào trong một khung cửa son, thấy những tòa cung điện bằng bạc đứng sừng
sững, có những tấm biển đề "Điện Quỳnh Hư", "Gác Dao Quang".
Trên gác có bà tiên áo trắng ngồi trên một cái giường thất bảo đặt bên một
cái giường nhỏ bằng gỗ đàn hương, mời Sinh lên ngồi"... "Rồi đó,
mặt trời gác núi, các khách khứa ra về hết"... Mọi vật như đều tan biến,
chỉ còn lại sự cực lạc của hạnh phúc lứa đôi giữa Từ Thức với Giáng Hương.
b. Thời gian trong tiểu thuyết chữ Hán chịu ảnh
hưởng của Đạo giáo đôi lúc là thời gian tâm lý. Chẳng hạn Từ Thức sống ở cõi
tiên được một năm, khi trở về nhà, thấy "vật đổi sao dời, thành quách
nhân gian, hết thảy đều không như trước nữa, duy có những cảnh núi khe là vẫn
không thay đổi sắc biếc màu xanh thuở nọ. Bèn đem tên họ mình hỏi thăm những
người già cả thì thấy có người nói: "Thuở bé tôi nghe ông cụ tam đại nhà
tôi cũng cùng tên họ như ông, đi vào núi đến nay đã hơn 80 năm rồi, nay đã là
năm thứ 5 niên hiệu Diên Ninh đời vua thứ ba triều Lê". Vậy là một năm ở
cõi tiên dài bằng 80 năm nơi trần thế!
Cũng có lúc ranh giới thời gian bị xóa nhòa hoàn
toàn, như ở truyện Bích Câu kỳ ngộ: "Buổi chiều hôm ấy bày tiệc
rượu đủ các hoa quả, trải chiếu giữa sân, Giáng Kiều ăn vận tề chỉnh, cùng Tú
Uyên ngồi xem trăng. Chợt trông vào chỗ vách, chàng thấy lâu đài nhà cửa đều
như gấm, như ngọc, hạnh đào đỏ tươi, cảnh giới khác nơi trần thế; mai vàng
mận tía, phong quang như ở cõi trời. Một lát sau thấy Tiên Dung Công chúa và
Ngụy Giáng Hương từ trên mây xuống, các tiên khác lục tục đến sau, có đến hơn
trăm vị". Như ta biết, Công chúa Tiên Dung người thời Hùng Vương; Giáng
Hương vợ Từ Thức người thời nhà Trần; còn Giáng Kiều và Tú Uyên sống vào thời
Hồng Đức, vậy mà họ có thể vượt qua mọi cách bức của thời gian để hội ngộ với
nhau trên cùng một chiếu!
Có phê phán nhiều hơn nữa, thì cũng đúng thôi.
Nhưng Đạo Lão và phái sinh của nó là Đạo giáo không phải không có những điểm
khả thủ mà ngày nay, với tinh thần gạn đục khơi trong, chúng ta cần tiếp tục
nghiên cứu. Riêng đối với tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, Đạo giáo đã kích
thích óc tưởng tượng của người cầm bút trên con đường đi tìm cái đẹp trong
cuộc sống con người, làm cho con người trở nên ngày một hoàn thiện hơn, hưởng
thụ được nhiều mỹ cảm văn học hơn. Đối với sự phát triển của thể loại văn học
nước ta, chính Đạo giáo cũng đã góp phần dẫn dắt tiểu thuyết đi từ bút ký,
đến chí quái, truyền kỳ và một vài thể loại khác nữa như diễm tình, công
án...
CHÚ THÍCH
(1) Thần tiên: chỉ những người tu luyện
thành công, có thể vượt ra khỏi vòng sinh tử, với khả năng biến hóa khôn
lường. Sách Thiên ẩn tử. Thần giải chép: "ở người gọi là nhân
tiên, ở trời gọi là thiên tiên, ở đất gọi là địa tiên, dưới nước gọi là thủy
tiên, có khả năng biến hóa gọi là thần tiên".
(2) Phương thuật: tức "phương tiên chi
thuật", gồm thiên văn(chiêm hậu, chiêm tinh), y học (vu y), thuật thần
tiên, chiêm bốc, tướng số, độn giáp, kham dư... Các môn "luyện đơn thái
dược", "phục thực dưỡng sinh", "tế tự quỷ thần",
"kỳ nhương cấm chú"... về sau đều được Đạo giáo tiếp thu, trở thành
những phương pháp tu luyện, tế độ quan trọng.
(3) Trương Đạo Lăng (34-156): nguyên tên là
Trương Lăng, người Phong Huyện, Giang Tô, từng làm quan Lệnh ở Giang Châu.
Vào đời Hán Thuận Đế (125-144), ông vào núi Hạc Minh ở Đại ấp Huyện, Tứ Xuyên
để tu đạo và dùng bùa chú chữa bệnh cho dân, sáng lập ra phái Đạo giáo ở Trung
Quốc. Ai muốn gia nhập đạo hồi bấy giờ đều phải đóng 5 đấu gạo, nên người đời
gọi đạo ông là đạo "năm đấu gạo".
(4) Cát Hồng (281- 341 ?): tự Trĩ Xuyên,
lấy hiệu là Bão Phác Tử, người Đan Dương, Giang Tô. Từ nhỏ ông đã thích tu
tiên luyện đan. Lớn lên, nghe ở Câu Lậu, Giao Chỉ (một tên nước ta thời cổ)
có đan sa, ông xin qua đó làm quan Lệnh Câu Lậu. Ông là nhà lý luận của Đạo
giáo thời Đông Tấn, đồng thời là nhà y học, nhà luyện thuốc trường sinh.
(5) Lý hoặc luận: tác phẩm của Mâu Bác, còn
gọi là Mâu Tử, người Thương Ngô, Quảng Tây, sống vào khoảng cuối thế kỷ 2 đầu
thế kỷ 3 sau Công nguyên. Ông từng dắt mẹ rời Thương Ngô chạy sang miền Bắc
nước ta để tránh loạn. Tại đây, ông để tâm nghiên cứu Phật giáo Luy Lâu
(Thuận Thành, Bắc Ninh, Trung tâm chính trị văn hóa Việt Nam hồi này), có
nhiều khám phá và phát hiện quan trọng. Ông viết Lý hoặc luận để trình
bày những mới mẻ mà ông tìm thấy nơi Phật giáo, đồng thời bảo vệ đạo Phật
trước sự tấn công từ nhiều phía của đạo Nho, thuyết Hoàng Lão và thuật tu
tiên, luyện thuốc trường sinh đang thịnh hành ở Giao Châu (một tên nước ta
thời cổ) hồi bấy giờ.
(6) An Nam chí lược: tác phẩm của Lê Trắc,
tự Cảnh Cao, người Đông Sơn, Thanh Hóa, không rõ sinh và mất năm nào. Theo
khảo cứu của Trần Kinh Hòa, sách An Nam chí lược đại khái được soạn
xong trong khoảng năm 1285-1307, sau đó lại tiếp tục bổ sung, mãi đến năm
1339 mới thực sự kết thúc (x. Bd. An Nam chí lược của ủy ban phiên
dịch sử liệu Việt Nam thuộc Viện đại học Huế, 1961, tr.XIII). Sách An Nam
chí lược có không ít những ghi chép liên quan tới Đạo giáo Việt Nam. Như
ở Q.1, khi viết về núi Tiên Du: "Có hòn đá bàn thạch, dợn có đường gạch
như bàn cờ, tương truyền rằng: xưa có tiên đánh cờ ở đó" (Sđd, tr.33);
khi viết về núi Yên Tử: "... Đại sư là Lý Tư Thông có dâng lên vua
Hải nhạc danh sơn đồ và vịnh thơ tán: Phúc địa thứ tư tại Giao Châu là
Yên Tử: "... Tiên cưỡi loan qua ngồi cảnh tịnh, Người xem rồng xuống
giỡn đầm xanh" (Sđd, tr.34). Khi viết về núi Đà Kỹ: "Có một khoảng
đất vườn, ở sát bờ biển, sinh ra thứ đá đen như hình con cờ, hình sắc thật
đẹp, đáng yêu. Ta (chỉ Lê Trắc - TN) thường ra chơi, gặp ông già nói rằng:
"Cách đây hơn một trăm dặm, lại có sản xuất con cờ đá trắng". Tục
truyền rằng: người tiên thường đánh cờ vây ở đó" (Sđd, tr.36); khi viết
về Sùng Sơn: "Thẩm Thuyên Kỳ, đời nhà Đường bị đày qua đất Hoan Châu
(tức Nghệ An ngày nay - TN), có làm bài Sùng Sơn hướng Việt Thường thi:
"... Tạo hóa công thiên hậu, Chân tiên tích lũy lâm..." (...
Tạo hóa riêng hậu đãi, Thiên nhân thường giáng lâm - TN) (Sđd, tr.37). Hay
khi viết về phong tục, có đoạn: "Ngày Nguyên Đán... Các thợ khéo làm một
cái đài "Chúng tiên" hai tầng trước điện, một lúc thì cái đài ấy
làm xong, vàng ngọc sáng chói. Vua [nhà Trần] ngồi ăn trên đài ấy, các quan
làm lễ, trước sau chín lạy, và chín tuần rượu rồi giải tán..." (Sđd,
tr.46). ở Q.15, có chép về Đạo sĩ Hoàn Nguyên: "Nhà nho, học Phật, lại
hoàn tục, lấy cô của vua là bà Thụy Tư, Trần Thái Vương (chỉ Trần Thái Tông -
TN) phong làm liệt hầu. Nguyên thường bắt buộc Thụy Tư theo đúng lễ chính, do
đó, vợ chồng bất hòa, rồi Nguyên đi làm Đạo sĩ. Nguyên làm thơ hay, tính ưa
ngao du rừng suối, vua cho làm chức Đạo lục, tục gọi là Đạo lục hầu"
(Sđd, tr.240).
(7) Thông Huyền: một Đạo sĩ nước ta đời Lý.
Sự tích về ông được chép chung với danh tăng Giác Hải trong bài Tăng đạo
thần thông ở sách Nam Ông mộng lục.
(8) Hoàn Nguyên: xem lại chú thích 6.
(9) Huyền Vân: Đạo sĩ, người Chí Linh, sống
ẩn ở chùa Lệ Kỳ, Ngao Sơn để luyện đan. Trần Dụ Tông từng mời ông tới để hỏi
cách tu luyện và đặt tên chỗ ở của ông là "Huyền Thiên Động" (x.
Hội chân biên, Q.Càn).
(10) Hội chân biên: do Thanh Hòa Tử ²M ©M ¤l soạn.
Quế Hiên Tử ®Û °a ¤l duyệt.
Bài Trùng san tự đề năm Tân Hợi, bài Dẫn đề năm Thiệu Trị 7.
Sách được in tại đền Ngọc Sơn, Hà Nội, năm Canh Tuất. Qua bài tựa và bài dẫn,
ta có thể hình dung quá trình soạn và in sách như sau: không rõ tự bao giờ,
đã có một cuốn Kê song xuyết thập. Đến năm Thiệu Trị 7 (1847), một
người hiệu Thanh Hòa Tử thấy Kê song xuyết thập có nhiều mặt chưa đầy
đủ, nên nhân lúc "Thánh triều khải vận, chí đạo phương minh =
triều thánh mở vận, đạo lớn sáng soi", đã biên tập lại và đặt tên mới
cho sách là "Hội chân biên", có vẽ tranh và làm thơ minh họa
(Dẫn). Nhưng rồi phải đợi đến tháng 4 năm Canh Tuất (1910), bản thảo mới
được đền Ngọc Sơn tổ chức khắc ván in, những mong "vãn phong hội ư
tương lai, chấn đồi ba ư ký đảo" = vãn hồi phong hội cho tương lai,
chấn hưng con sóng đã sụp đổ" (Trùng san tự), nhằm khơi dậy tinh
thần yêu nước chống Pháp trong nhân dân ta. Tháng 9 năm Tân Hợi (1911) sách
in xong, bèn thiết đàn cầu cơ tại Đa Ngưu (Văn Giang, Hải Dương), lấy giáng
bút của "tiên Liễu Hạnh" làm tựa đề cho lần xuất bản (Hội chân
biên hiện được in trong Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san, Tập
II, gồm 5 quyển, 20 truyện, do Chan Hing - ho, Trịnh A Tài và Trần Nghĩa đồng
Chủ biên, Học viện Viễn đông Bác cổ Pháp xuất bản, Học sinh thư cục Đài Loan
ấn hành năm 1992. Hội chân biên in ở cuối Q.5).
(11) Xem Hội chân biên, Q.Càn và Q.Khôn.
(12) Xem Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam
gồm 4 tập, do Trần Nghĩa chủ biên, Nxb. Thế giới, Hà Nội - 1997. Các đoạn dẫn
về tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam bên dưới, đều trích từ Tổng tập tiểu
thuyết chữ Hán Việt Nam.
(13), (14), (15) Xem Thân Tải Xuân: Đạo giáo và
truyền kỳ đời Đường, Bd. của Thọ Nhân, Tạp chí Hán Nôm, số 4-1998.
(16) Xem Trần Nghĩa: "Lý hoặc luận",
bông hoa đầu mùa của Phật giáo Luy Lâu, Tạp chí Hán Nôm, Số 1 - 1991,
tr.97.
|
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét