BÙI XUÂN TÍCH
Chủ tịch BCH CĐ họ Bùi
huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định
Truyền
thuyết làng Bách Cốc kể rằng, vào đời Trần Anh Tông có 12 vị tổ các họ Bùi xuống
khai phá đất hoang, lập ra chòm xóm cư dân. Gia phả họ Bùi Doãn còn ghi rõ: Thủy
tổ là Bùi Doãn Nguyên thuộc chi ba họ Bùi Văn ở xã Ngọc Nhuận, nay thuộc tỉnh Bắc
Ninh, gốc cùng họ với tộc trưởng Bùi Mộ ở làng Hưng Giáo, huyện Thanh Oai (nay
thuộc Hà Nội). Hai anh em họ Bùi Mộ và Bùi Doãn Nguyên cùng đậu Hương cống, đều
nổi tiếng văn chương. Hai anh em đi thi
Thái học sinh khoa Giáp Thìn đời Trần Anh Tông (1304). Bùi Mộ đậu Bảng nhãn,
“Bùi Doãn Nguyên không trúng, đã phẫn chí bỏ làng đi nơi xa, đến xã Bách Cốc dạy
học, ôn luyện để nuôi chí làm nên nghiệp lớn”(1). Ông đưa vợ từ Ngọc Nhuận là
bà Nguyễn Thị Bình cùng về Bách Cốc. Ông bà sinh một con trai là Bùi Quang Gia,
được cha nuôi nấng, dạy dỗ Bùi Quang Gia học hành tấn tới. Năm Giáp Dần (1374)
đời Trần Duệ Tông, đậu Hương Cống. Bùi Quang Gia cũng không ra làm quan, tiếp tục
ở nhà dạy học. Bùi Quang Gia sinh hai con trai là Bùi Doãn Trung (tức Bùi Ư
Đài) và Bùi Doãn Hậu. Hai anh em đều học giỏi nhưng đều ở ẩn, chờ thời cơ giúp
nước, nghĩ cách cứu dân. Khi nghe tin Lê Lợi khởi nghĩa ở Thanh Hóa, Bùi Ư Đài
cùng con trai là Bùi Doãn Thái lặn lội tìm đường vào Lam Sơn, tham gia khởi
nghĩa.
Mùa xuân năm Đinh Mùi (1427), Lê Lợi cùng
đại quân tiến ra Đông Đô bao vây chặt giặc Minh trong thành, bức Vương Thông phải
đầu hàng. Lê Lợi đóng đại bản doanh tại Bồ Đề
(bờ sông Hồng thuộc địa phận Gia Lâm Hà Nội), trực tiếp chỉ huy việc giải
phóng Đông Đô. Chiến thắng sắp đến, Lê Lợi chuẩn bị xây dựng chính quyền dân tộc
độc lập. Lê Lợi cử Nguyễn Trãi làm thượng thư Bộ lại và Bùi Ư Đài là Thượng thư
Bộ Lễ, giúp Lê Lợi xây dựng bộ máy chính quyền Trung ương và các địa phương.Vua
Lê lại chia nước ra làm 5 đạo, cử Bùi Ư Đài kiêm tri Đồng tri bạ tịch Bắc đạo (Quan
đứng đầu trông coi công việc hành chính quân sự ở vùng đồng bằng ven biển Bắc bộ).
Năm 1428, khi đất nước hoàn toàn được giải phóng, Lê Lợi ban thưởng cho các tướng
sỹ. Song, biên giới phía Bắc còn có nhiều điểm ở vùng dân tộc ít người tình
hình diễn ra phức tạp. Lê Lợi cử Bùi Ư Đài sang kiêm tri Bắc đạo quân dân bạ tịch,
nhằm ổn định tình hình kinh tế chính trị xã hội vùng biên giới. Ông làm quan
thanh liêm, nhân ái đoàn kết được các dân
tộc miền núi, làm cho vùng biên giới yên ổn. Vì thế, sau này ông qua đời, dân
vùng Lạng Giang ghi nhớ công ông, đã tạc tượng, lập đền thờ tướng công Bùi Ư
Đài.
Ngày
22 tháng 8 (nhuận) năm 1433, Lê Thái Tổ băng hà ở Chính Tẩm, Lê Thái Tông lên
ngôi ngày 8 tháng 9 năm 1433, tôn xưng Thái Tôn Văn hoàng Đế, đặt niên hiệu Thiệu
bình (1434 - 1439) Đại Bảo (1439 - 1442). Sau khi Lê Thái Tổ mất, vua mới còn trẻ tuổi, Bùi Ư
Đài thấy trời sinh nhiều tai dị; Bùi Ư Đài đã dâng sớ tâu bày bốn điểm cần làm
ngay, giúp vua lo việc hưng thịnh, củng cố đất nước, chống lại gian thần:
Điều
thứ nhất: Xin bệ hạ bên trong thì chọn những bậc hoàng huynh (2) quốc hữu (3)
già lão, am hiểu điển xưa, lưu làm nhập thị để khuyên răn nhắc bảo cho mình,
ngoài thì đặt chức sư phó, để làm cột đá của nước, chỉ huy trăm quan.
Điều
thứ hai: Các quan viên văn võ và quân dân trước đã bị tội đồ lưu ở các nơi là
tiên đế có ý trừng răn, nay lại thấy trọn về làm quan, giữ chức coi quân trị
dân, thế là trái ý tiên đế, không hợp với đạo trời đất ...
Đại
Tư Đồ Lê Sát đọc nội dung bản tấu sớ giận lắm, sai người chép hai điều ấy tự
tay cầm lên dâng vua và nói:
- Tiên đế
cho bọn thần là bề tôi cũ lâu đời, vả lại đã cùng với tiên đế vất vả trong mười
năm, ra vào chốn muôn chết một sống để lập nên triều đình, tiên đế vốn biết bọn
thần là hạng chất phác ngu độn cho nên đến khi sắp băng, đem bệ hạ ký thác cho
bọn thần. Nay Ư Đài nói thế, có ý ngờ bọn thần làm bậy, chuyên quyền mà xui bệ
hạ tìm người thân thuộc khác để phòng giữ, xin giao xuống cho ngục quan xét hỏi
việc chém không tha.
Vua
ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói:
- Câu nói của Ư Đài tuy có thiệt hại, nhưng
đâu đến thế!
Lê
Sát tâu đi tâu lại vài bốn lần, Vua đều không nghe. Bọn Thiên Hựu, Cẩm Hồ lại tâu
rằng:
- Ư Đài khuyên Bệ hạ không nên tin
dùng đại thần, thế là lời di chiếu của Tiên đế mà gây càn hiềm khích, không thể
không xét tội”. Hữu
Bật và Lê Văn Linh cần tờ sớ đến tâu, Vua nói cho xét. rồi sử tội Ư Đài lưu đi Viễn Châu.
Bọn quyền thần quyết hãm hại ông tìm cách buộc
vua phải trị tội ông, xử ông lưu đày viễn xứ. Ba năm sau, năm Thiệu Bình thứ 4
(1437) vua Lê Thái Tông trị tội bọn quyền thần phạm nhiều tội lộng quyền, hãm hại
các công thần. Bùi Ư Đài được minh oan, phục chức, cho Bùi Ư Đài giữ chức Đồng
tri môn hạ Tử tư sự, tước trí tự kiêm chức Tham tri quân dân bạ tịch Tây đạo
(nay thuộc Hà Nội, Hòa Bình,Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Tây Bắc).
Bùi Ư
Đài làm quan trải qua ba triều vua Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông và Lê Nhân Tông. Cuối
đời, tuổi cao sức yếu, ông về nghỉ hưu dưỡng tại quê nhà. Ông mất ngày 22 tháng
8 năm Tân Tỵ (1461), niên hiệu Quang Thuận
đời vua Lê Thánh Tông. Ngày 15 tháng 10 năm đó, vua Lê Thánh Tông ban chiếu
truy tặng Bùi Ư Đài là Bình Ngô khai Quốc
Bảo chính công thần Thái phó Bình quận Công.
Và chiếu chỉ cho Bùi Ư Đài là thành hoàng làng Bách Cốc để muôn đời dân được hương lửa phụng thờ.
Nội
dung chiếu có đoạn đánh giá công lao to lớn của ông.
“ Như Rồng ngâm, như hổ phục, suốt đời
làm tôi trung phụng sự quân Vương, nét Phụng vẻ Rồng thật là con người phi thường,
con người hiếm có. Thái phó Bình quận công Ư Đài, như phúc tinh ở phương Đông,
chính khí ở Nam, hội ngộ Lũng Nhai như duyên ưa cá nước, chiến đấu ở Chi Lăng
dũng mãnh như hổ báo, làm tả tướng cho
vua Thái Tổ bình thiên hạ, đời vua Thái Tông được thanh bình, làm quan
trải qua ba đời vua, tài kiêm văn võ, trải nghiệm qua nhiều việc lớn, lúc yên,
lúc nguy, có nhiều công lớn với nước nhà, cháu con cùng hưởng lợi.
Nay tặng phong Uy linh dũng lược
trung đẳng thần để nêu gương sáng làm tôi thờ vua tốt”
Đền
thờ của ông tại làng Bách cốc (nay thuộc xã Thành Lợi huyện Vụ Bản), có đôi câu
đối thờ:
Lê sử lưu truyền Thái phó Quận
công phúc trạch viễn
Cốc từ hiển đạt Dân khang vật
phụ khánh trùng hưng
Nghĩa là:
Sử
Lê truyền lại Thái phó quận công phúc trạch viễn
Đền
Cốc rỡ ràng dân yên vật phụ thật mừng vui.
Tướng
quân Bùi Ư Đài chỉ có một người con trai là phó vệ uý Bùi Doãn Thái, cùng tham
gia khởi nghĩa Lam Sơn. Bùi Doãn Thái không có con trai, cũng chỉ có một con
gái là Bùi Thục Viên, là vương phi của cung vương Lê Khắc Xương (anh của Lê
Thánh Tông) là tổ mẫu của họ Bùi đặc ân ở Thượng Trưng (nay thuộc huyện Vĩnh Tường,
tỉnh Vĩnh Phúc). Thái phó Bình quận công được vua ban xạ điền, nay là cánh đồng
Xạ phía đông nam làng Bách Cốc.
|
(1) Bùi Văn Tam, Trích gia phả Bùi Doãn
làng Bách Cốc – lưu tại nhà thờ.
(2).Hoàng huynh: anh vua.
(3):Quốc hữu: Bố đẻ của
vợ vua, hoặc là cậu vua.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét