GS.TSKH Nguyễn Quang Hồng là một nhà khoa học có nhiều đóng góp xuất sắc trong lĩnh vực ngôn ngữ học và nghiên cứu Hán Nôm. Hơn 50 năm trên đường học vấn, ông đã để lại những dấu ấn rõ nét trong một loạt công trình, tự biên hoặc chủ biên (3 chuyên luận, 2 bộ tự điển chữ Nôm, một tuyển tập tiểu luận và một số sách khảo cứu, phiên chú, …). Ông được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về Khoa học và Công nghệ đợt V (2017). Ông cũng được học giới đánh giá là một học giả cá tính, sắc sảo, chỉn chu và nghiêm túc trong khoa học.
Ông sinh năm Kỷ Mão (1939) tại Trà Kiệu, huyện Duy Xuyên, Quảng Nam. Thuở nhỏ Nguyễn Quang Hồng sống ở quê, nhưng lên 6 tuổi, quê ông bị giặc chiếm, ông đã phải theo gia đình tản cư vào vùng tự do Trảng Chủi (Chổi), thuộc huyện Quế Sơn. Ở đó, ông học trường phổ thông, bắt đầu từ cấp 1 trở đi. Cha mẹ ông là những người tham gia Kháng chiến chống Pháp. Sau Hiệp định Genève (1954), họ đều ở lại quê, tiếp tục hoạt Cách mạng. Riêng Nguyễn Quang Hồng và một người em trai trốn khỏi vùng kiểm soát của đối phương vào Quy Nhơn, từ đó lên tàu tập kết ra Bắc. Đầu năm 1955, Nguyễn Quang Hồng lần đầu tiên đến thủ đô Hà Nội. Sau đó, ông được học tiếp phổ thông tại các trường Học sinh Miền Nam ở Hà Nội.
Tốt nghiệp phổ thông hạng ưu (1959), ông được cử sang Trung Quốc học tại trường Đại học Bắc Kinh, chuyên về Ngôn ngữ học. Những năm học ở đây (1960-1965), ông say sưa tìm hiểu về lich sử ngôn ngữ chữ viết và nền văn hiến cổ điển Trung Hoa. Ông may mắn được GS Vương Lực hướng dẫn luận văn. GS Vương Lực là nhà ngôn ngữ học nổi tiếng không chỉ ở Trung Quốc, và Nguyễn Quang Hồng nhận được nhiều gợi mở quan trọng từ người thầy uyên bác của mình.
Giữa năm 1965, cử nhân Nguyễn Quang Hồng từ Bắc Kinh về Hà Nội. Đó là lúc đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại ra Miền Bắc, đặc biệt là các tỉnh Bắc Trung Bộ. Nguyễn Quang Hồng tình nguyện vào nhận công tác tại trường Đại học Sư phạm Vinh, nơi đang hứng chịu nhiều bom đạn của giặc Mỹ. Để tránh bom giặc, duy trì công việc giảng dạy và học tập, trường ĐHSP Vinh đã di chuyển đi nhiều nơi trong tỉnh Nghệ An, thậm chí ra cả tỉnh Thanh Hóa. Thế là Nguyễn Quang Hồng với tuổi thanh niên sôi nổi, đã cùng sinh viên và “con ngựa sắt” của mình rong ruổi hết nơi này đến nơi khác, từ đồng bằng đến vùng sơn cước. Từ một góc nhà sàn vùng núi rừng xứ Thanh, Nguyễn Quang Hồng bắt tay soạn giáo trình “Ngữ âm tiếng Việt” với nhiều cải tiến so với các giáo trình đang có đương thời. Và ngay từ những giờ đầu tiên trên bục giảng đại học, ông đã thành công khi sinh viên chăm chú nghe giảng và không ai thấy môn này là “3 khờ” (khó, khô, khổ) như người ta vẫn bảo.
Năm 1970 từ xứ Nghệ nghèo khó, Nguyễn Quang Hồng được nhà trường ĐHSP Vinh chọn sang Moskva làm nghiên cứu sinh tại trường Đại học MGU Lomonosov. Ở đây ông có dịp đọc nhiều sách vở chuyên sâu theo hứng thú của mình. Đề tài luận án phó tiến sĩ (nay ta gọi là TS) của ông Âm tiết là đợn vị ngữ âm cơ bản (trên tài liệu tiếng Việt và tiếng Hán), được gợi mở từ quan niệm của một sô các nhà ngôn ngữ học Nga, Trung Quốc, Việt Nam. Trong khi có không ít các nhà nghiên cứu vẫn muốn lấy hình mẫu của các ngôn ngữ biến hình (như Nga, Anh...) để áp dụng cho các ngôn ngữ đơn lập như tiếng Việt, tiếng Hán, thì Nguyễn Quang Hồng đi theo hướng chỉ thừa nhận những gì có thực trong nội bộ ngôn ngữ, chứ không áp đặt những gì từ bên ngoài, từ những ngôn ngữ khác xa về mặt loại hình. Cuối năm 1974, luận án đưa ra bảo vệ tại Viện Đông phượng học Liên Xô, được đánh giá xuất sắc.
PTS Nguyễn Quang Hồng trở về nước vào đầu năm 1975, giữa lúc quân ta sải những bước chân thần tốc vào giải phóng Quảng Nam - Đà Nẵng, một mạch thẳng tiến vào Sài Gòn, và từ ngày 30-4 năm ấy, Tổ quốc thống nhất, non sông liền một mối. Nguyễn Quang Hồng trở lại trường ĐHSP Vinh, nêu nguyện vọng muốn về Miền Nam công tác. Song phần vì đồng nghiệp trong Khoa quý mến, Nhà trường luyến tiếc, muốn ông ở lại làm việc thêm một thời gian nữa, và phần vì bản thân ông trọng nghĩa tình, không muốn phụ lòng những người đã gần gũi, giúp đỡ mình và gia đình mình trong bao nhiêu năm đồng cam cộng khổ, nên ông đã thuận tình ở lại phục vụ. Ông được giao làm Tổ trưởng bộ môn Ngôn ngữ, kiêm Phó chủ nhiệm khoa Ngữ văn. Say sưa giảng dạy và nghiên cứu, không ngờ “một thời gian nữa” đó tính ra gần bảy năm, cho đến khi ông được cấp trên cử sang Moskva một lần nữa để làm luận án Tiến sĩ (nay ta gọi là TSKH).
Cuối năm 1982 Nguyễn Quang Hồng khăn gói trở lại trường MGU Lomonosov. Thời gian làm luận án lần này chỉ gói gọn trong 2 năm, nên Nguyễn Quang Hồng triển khai công việc rất khẩn trương. Trải qua nhiều năm học tập và nghiên cứu chuyên sâu, ông xác định đề tài mới phải đặt nhiệm vụ nghiên cứu hiện tượng âm tiết như là một đối tượng ngôn ngữ học mang những chức năng nhất định trong các ngôn ngữ thuộc những loại hình cơ cấu khác nhau. So với luận án PTS , luận án lần này của ông chẳng những đã mở rộng diện so sánh ngữ liệu (đề cập đến hàng trăm ngôn ngữ), mà cũng được nâng cao hơn về cơ sở lý luận (thảo luận và kế thừa ý tưởng của một loạt các học giả tiền bối trong truyền thống ngôn ngữ học Nga và châu Âu, Trung Hoa và Việt Nam). Luận án xác định 3 hướng tiếp cận (“từ bên trong”, “từ bên ngoài” và “từ bên trên”) để nghiên cứu và miêu tả ngôn ngữ, trong đó “từ bên trong” là hướng cơ bản nhất. Luận án đưa ra một phác thảo về “âm vị học âm tiết”, theo hướng tiếp cận “từ bên trong”, áp dụng cho những ngôn ngữ đơn lập âm tiết tính như tiếng Việt, tiếng Hán. Tác giả đề xuất một bảng phân chia loại hình các ngôn ngữ trên bình diện ngữ âm với 4 loại hình cơ bản (mà hai đối cực là “âm tố bản vị” và “âm tiết bản vị”), v.v. Không rập khuôn theo hình mẫu các ngôn ngữ Âu Tây mà lấy âm tiết làm bản vị, Nguyễn Quang Hồng tỏ ra khá gần gũi với E.D. Plivanov và A.A. Dragunov ở Nga, Nguyễn Tài Cẩn và Cao Xuân Hạo ở Việt Nam, Triệu Nguyên Nhiệm và Vương Lực ở Trung Hoa. Luận án được mang hai ký hiệu chuyên ngành: Ngôn ngữ học đại cương và Ngôn ngữ hoc so sánh loại hình. Đầu năm 1985, luận án được Hội đồng chấm luận án của khoa Ngữ văn, Đại học tổng hợp Moskva Lomonosov đánh giá xuất sắc. Giáo sư phản biện M.K. Rumiancev đọc bản nhận xét, khẳng định: “Cho đến nay, trong ngôn ngữ học phương Tây cũng như phương Đông, chưa hề có một công trình nào như công trình tác giả đệ trình ở đây. Chưa hề có một ai đã nghiên cứu kỹ lưỡng hiện tượng âm tiết trên tư liệu của nhiều ngôn ngữ khác nhau và trong các truyền thống ngôn ngữ học khác nhau như vậy. Tác giả, với khối tư liệu phong phú cả về ngữ liệu, cả về sách vở khoa học, đã làm sáng tỏ các truyền thống ngôn ngữ học đó, đã giải thích đầy thuyết phục logic nội tại của chúng, cái logic được quy định bởi ngữ liệu và bởi loại hình của ngôn ngữ” . GS Ju. Ja. Plam ở Viện Đông phương học có lần nói với tác giả luận án rằng: “Với Nguyễn Quang Hông, vấn đề không phải chỉ là như thế nào, mà quan trọng hơn là tại làm sao như vậy”. Quả thật, cho mãi về sau này, hướng tới lý giải bản chất của hiện tượng là điều mà ông luôn theo đuổi trong các công trình nghiên cứu của mình. Sau khi ông bảo vệ luận án, cố vấn khoa học của ông là GS Ju.V. Rozhdestvensky có ý muốn mời ông ở lại trường tham gia giảng dạy ở bộ môn do chính GS phụ trách, nhưng ông xin về nước ngay vì nỗi niềm nhớ quê. Chín năm sau, ông mới bắt tay vào dịch luận án này sang tiếng Việt và cho xuất bản với tiêu đề Âm tiết và Loại hình ngôn ngữ (Nxb Khoa học Xã hội, 1994; Nxb Đại học QG Hà Nội, 2002; Nxb Đại học QG Tp Hồ Chí Minh, 2012).
Giữa năm 1985, Nguyễn Quang Hồng về Hà Nội, được cấp trên cử đến công tác tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, làm nghiên cứu viên cao cấp, và đảm nhiệm Viện phó (1986 đến 1992). Với ông, nghiên cứu Hán Nôm là một lĩnh vực mới, nhưng không xa lạ gì so với sở học của ông. Công việc trước tiên mà Nguyễn Quang Hồng hăng hái tham gia cùng các đồng nghiệp trẻ ở Viện là thâm nhập thực tế, khảo sát và sưu tầm tư liệu Hán Nôm trong các di tích văn hóa trên thực địa, từ các tỉnh quanh Hà Nội cho đến Huế, Đà Nẵng, Hội An… Mặt khác ông để thời gian tìm hiểu những thành tựu mà các học giả tiền bối đã đạt được, liên hệ với những gì ông nắm biết về văn hiến học Trung Hoa để tạo lập những tri thức làm nền cho công việc của mình. Quan trọng không kém là thành tựu của các học giả Nga trong lĩnh vực ngữ văn học cổ điển, đặc biệt là quan niệm và phương pháp mới về ngữ văn học đại cương trong công trình của thầy mình – GS Ju.V. Rozhdestvensky.
Ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm lúc bấy giờ hầu như mọi người chỉ chăm chú vào việc chuyển dịch các văn bản Hán Nôm sang văn bản chữ Quốc ngữ, chứ chưa thực sự đi vào nghiên cứu khoa học đúng nghĩa, và do đó chưa có ai đạt được bằng cấp học vị gì. Nguyễn Quang Hồng trình bày với đồng nghiệp ở Viện, rằng nghiên cứu Hán Nôm thực chất là nghiên cứu Ngữ văn cổ điển Việt Nam, chứ không đơn giản chỉ là phiên dịch chữ nghĩa như nhiều người vẫn nghĩ. Phiên dịch (viết và nói) là một nghề cao quý, đáng nể. Song phiên chuyển một văn bản chữ Hán chữ Nôm sang một văn bản chữ Quốc ngữ cho một tác phẩm Hán Nôm nào đó, dẫu sao vẫn nằm ngoài phạm vi của công trình nghiên cứu khoa học chính danh, dịch giả càng không thể đem bản dịch đi “bảo vệ” để lấy bằng Tiến sĩ được. Nguyễn Quang Hồng cho rằng có 3 chuyên ngành chủ yếu trong Ngữ văn học cổ điển Việt Nam mà nhà nghiên cứu Hán Nôm nên hướng theo là: Văn tự học Hán Nôm, Văn bản học Hán Nôm và Văn tịch học Hán Nôm.
Nội dung và mối liên quan giữa 3 chuyên ngành này được ông trình bày khá kỹ trong bài Di sản Hán Nôm nhìn từ góc độ của khoa học ngữ văn đăng trên “Tạp chí Hán Nôm” (1987, N.2). Bản thân Nguyễn Quang Hồng không từ chối làm phiên dịch (thậm chí là dịch gia phả), nhưng ông dành nhiều hứng thú cho nghiên cứu những vấn đề thuộc 3 chuyên ngành kể trên, đặc biệt là nghiên cứu chữ Nôm và loại hình văn bản Hán Nôm. Chính ông là người đầu tiên của Viện nhận hướng dẫn các cán bộ trẻ trong và ngoài Viện làm nghiên cứu sinh theo định hướng Ngữ văn học Hán Nôm. Từ đó, cán bộ trong Viện có điều kiện để bảo vệ luận án Tiến sĩ và dần dần được phong chức danh Phó giáo sư. Còn bản thân ông thì sau thời gian dài tích lũy tư liệu và trau dồi lý luận, phương pháp nghiên cứu, ông lần lượt cho ra mắt một loạt cuốn sách như: Văn khắc Hán Nôm Việt Nam – tuyển chọn và lược thuật (chủ biên, 1992), Di văn chùa Dâu (chủ biên,1996),Truyền kỳ mạn lục giải âm (phiên âm và chú giải, 2001/2019), Tự điển chữ Nôm (chủ biên, 2006 – Giải A sách hay do Hội xuất bản Việt Nam trao), Khái luận văn tự học chữ Nôm (chuyên luận, 2008, Giải thưởng Nhà nước về Khoa học và Công nghệ, năm 2017), Tự điển chữ Nôm dẫn giải (2 tập, 2014)…
Khái luận văn tự học chữ Nôm (Nxb Giáo dục, 2008) là chuyên luận đầu tiên nghiên cứu toàn diện và sâu sắc về chữ Nôm ở Việt Nam. Cuốn sách đặt chữ Nôm của người Việt trong bối cảnh chung của các văn tự phái sinh từ chữ Hán, nêu bật những nét tương đồng và khác biệt giữa chúng. Công trình thảo luận khá chi tiết về nguồn gốc và sự hình thành chữ Nôm (theo ông; thế kỷ XII đánh dấu sự hình thành văn tự Nôm); phân tích và hệ thống hóa các cấu trúc hình thể và cấu trúc chức năng của chữ Nôm; xem xét vai trò của chữ Nôm trong đời sống văn hóa xã hội của người Việt xưa và nay, v.v… Cuốn sách được dàn dựng công phu và nghiêm túc, tạo nên một cơ sở lý luận cho việc tiếp tục nghiên cứu chữ Nôm theo hướng văn tự học.Đây cũng chính là cơ sở lý thuyết để Nguyễn Quang Hồng xử lý tư liệu khi đi vào biên soạn bộ tự điển chữ Nôm kiểu mới.
Đó là bộ Tự điển chữ Nôm dẫn giải (2 tập, gồm 2323 tr. Nxb KHXH, 2014) với dung lượng lớn và dẫn giải kỹ càng, được độc giả trong và ngoài nước nhiệt liệt đón nhận. Nó vượt trội và khác biệt hẳn với nhiều bộ tự điển có trước, kể cả bộ Tự điển chữ Nôm (2006) do chính ông chủ biên. Một trí thức Việt kiều ở Mỹ viết email cho tác giả: “Tôi rất quý sách của anh, soạn rất công phu, đáng chức Lưỡng Quốc Trạng Nguyên (Mỹ và Việt Nam), vì không có sinh viên tiến sĩ hay giáo sư nào ở Mỹ làm được. Tại Việt Nam cũng vậy. Tôi sẽ dùng sách này tra cứu luôn luôn để biết thêm việc dùng các chữ coi như thông thường nhưng lại rất sâu sắc khi có diễn giải cách dùng trong lịch sử và xã hội nước ta. Tôi và hàng vạn người khác xin cám ơn công sức của anh”. Một học giả Việt kiều khác ở Úc cũng viết: “Về 2 tập “Tự điển chữ Nôm đẫn giải” : Tôi thường dùng làm tài liệu tham khảo chính trong các bài viết và coi đây là một công trình quan trọng bậc nhất về chữ Nôm trong thời đại này”. GS Nguyễn Quang Hồng không xin kinh phí để soạn bộ tự điển này, và đến khi xuất bản thì kinh phí là điều đầu tiên phải đặt ra. GS. John Balaban, nguyên chủ tịch Hội bảo tồn di sản chữ Nôm (Hoa Kỳ), đã thông cảm và nhiệt tình tài trợ phần lớn kinh phí để xuất bản. Ông cũng viết thư chúc mừng tác giả: “Tự Điển Chữ Nôm Dẫn Giải là một công trình đồ sộ. Là một người bạn cũ và người sáng lập Hội Bảo tồn di sản chữ Nôm, tôi vui mừng thấy nó đã được xuất bản. Tôi biết anh đã làm việc thật lâu dài để tạo ra cuốn từ điển này và anh đã chăm chút để chắc chắn rằng sự uyên bác của nó là toàn diện và có ảnh hưởng sâu rộng. Tôi tự hào đã có một phần nhỏ đóng góp vào việc cuối cùng tạo ra nó”. Hội bảo tồn di sản chữ Nôm còn chủ trương thực hiện số thức hóa bộ tự điển này và đưa lên Internet để đông đảo độc giả có thể truy cập qua máy tính. Công việc này được đương kim Chủ tịch Hội là GS Lee Collins chủ trì và đã hoàn tất cuối năm 2017.
Liên quan với việc biên soạn tự điển chữ Nôm, GS Nguyễn Quang Hồng trong suốt một thời gian dài (1994-2006) là chuyên gia chữ Nôm duy nhất được Viện giao nhiệm vụ sưu tầm các dạng thể chữ Nôm trong kho tàng văn bản Hán Nôm, lập nên các tập chữ theo những tiêu chí do tổ chức Mã hóa chữ biểu ý quốc tế (gọi tắt là IRG) quy định,và cùng với các học giả trong khu vực thẩm định, biên tập để từ đó đề nghị Tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế (gọi tắt là ISO) cấp mã (Unicode) cho chữ Nôm Việt. Với nhiệm vụ đó, hằng năm ông cùng với một kỹ sư tin học được cử đi dự các cuộc họp của nhóm IRG tại nhiều nước khác nhau trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á. Đến năm 2006, khi ông về hưu, trong bảng mã chung cho các chữ vuông của khu vực, đã có gần 10.000 chữ Nôm của Việt Nam được cấp mã Unicode. Đây chính là cơ sở dữ liệu để các kỹ sư trong lĩnh vực công nghệ thông tin lập nên các bộ phông chữ Nôm, từ đó chữ Nôm bắt đầu bước lên bàn phím máy tính. Với những đóng góp trong công việc mã hóa chữ Nôm, cùng với thành tựu biên soạn chữ Nôm, GS Nguyễn Quang Hồng là người đầu tiên (năm 2009) được Hội Bảo tồn di sản chữ Nôm (Hoa Kỳ) trao tặng Giải thưởng cho nhà nghiên cứu tiêu biểu về Hán Nôm.
Những năm gần đây, GS Nguyễn Quang Hồng cùng bạn đời là TS Phan Diễm Phương quan tâm đến một đề tài nghiên cứu mang tính liên ngành Ngữ học và Văn học. Đây là đề tài đã được tác giả ấp ủ từ lâu, bắt đầu từ thời còn giảng dạy ở Đại học Sư phạm Vinh, nhưng nay mới thực hiện được. Chuyên luận này do Nxb Đại học QG Hà Nội ấn hành dưới tiêu đề Âm tiết tiếng Việt và Ngôn từ thi ca (2017). Trong Lời dẫn, tác giả viết: “Trên đại thể, công trình này nghiêng về nghiên cứu những vấn đề của ngôn từ thi ca trên bình diện ngữ âm, và qua đó tìm mối liên hệ giữa âm thanh và ý nghĩa, xác định những giá trị mỹ cảm từ những biểu hiện ngữ âm trong tác phẩm thi ca tiếng Việt”.
Cùng với những công trình dài hơi như trên đã kể, GS Nguyễn Quang Hồng còn viết ngót trăm bài nghiên cứu (tiểu luận khoa học), đã công bố rải rác trên các tạp chí chuyên ngành trong và ngoài nước (bằng tiếng Viêt, Nga, Hán, Anh). Ông cũng thường xuất hiện trong các cuôc hội thảo quốc gia và quốc tế, từng được mời thuyết trình học thuật tại nước ngoài như: Paris VII, Đại học Bách khoa Hong Kong, Đại học New York, Đại học Havard, Đại học Yale, Hội Hán tự học Nhật Bản, Đại học Sư Phạm Hoa Đông, Đại học Quốc lập Thành Công Đài Nam, …Nay tác giả tập hợp các bài đã công bố lại, chọn lọc và biên tập thành một cuốn sách mang tên Ngôn ngữ. Văn tự. Ngữ văn (tuyển tập tiểu luận), do Nxb Khoa học Xã hội ấn hành (2018). Trong tuyển tập này, ngoài những gì có liên quan với các chuyên luận dài hơi, còn có nhiều bài để cập đến những vấn đề khác như : xác định các phương thức định hình ngôn từ và văn bản; đối chiếu các ngữ tố cùng gốc và chữ vuông trùng hình giữa Việt và Hán, Ngạn, Tày, Choang; thảo luận vấn đề chuẩn hóa và giáo dục ngôn ngữ - chữ viết trong nhà trường và trong xã hội nước ta hiện thời, v.v.
Thành tựu và uy tín học thuật của GS Nguyễn Quang Hồng từ lâu đã được học giới và Nhà nước ghi nhận, được trao tặng những giải thưởng danh giá. Những năm tháng trước khi nghỉ hưu (2005) ông hai lần được bầu làm Chủ tịch Hội Ngôn ngữ học Việt Nam; nhiều năm là thành viên của Hội đồng Chức danh Giáo sư Nhà nước (thuộc bộ Giáo dục) và Hội đồng Di sản Văn hóa Quốc gia (thuộc bộ Văn hóa),...
Bước sang tuổi 80, hơn nửa thế kỷ miệt mài hoc tập, nghiên cứu và giảng dạy, GS.TSKH Nguyễn Quang Hồng đã thực sự tạo nên ở học giới một ấn tượng riêng biệt và đậm nét trong nền khoa học Ngữ Văn nước nhà.
Nguyễn Phương Trang
(Đại học KH Xã hội và Nhân Văn – ĐHQG Tp HCM)
Nguyễn Thanh Hóa
(Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam, Hà Nội)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét