Thứ Bảy, 3 tháng 4, 2021

VÔ TỰ LÀ CHÂN KINH – MINH TRIẾT THƠ NGUYỄN DU

         NGUYỄN KHẮC MAI

     LƯƠNG TRIỀU CHIÊU MINH THÁI TỬ PHÂN KINH XỨ

 























渡人  





其中奧旨多不明

 

 

Thạch đài do kí "Phân kinh" tự
Đài cơ vu một vũ hoa trung
Bách thảo kinh hàn tận khô tử
Bất kiến di kinh tại hà sở
Vãng sự không truyền Lương thái tử
Thái tử niên thiếu nịch ư văn
Cưỡng tác giải sự đồ phân phân
Phật bản thị không bất trước vật
Hà hữu hồ kinh an dụng phân
Linh văn bất tại ngôn ngữ khoa
Thục vi Kim Cương vi Pháp Hoa
Sắc không cảnh giới mang bất ngộ
Si tâm quy Phật Phật sinh ma
Nhất môn phụ tử (1) đa giao tế
Nhất niệm chi trung ma tự chí
Sơn lăng bất dũng liên hoa đài
Bạch mã triêu độ Trường Giang thủy
Sở lâm họa mộc trì ương ngư
(2)
Kinh quyển thiêu hôi đài diệc dĩ
Không lưu vô ích vạn thiên ngôn
Hậu thế ngu tăng đồ quát nhĩ
Ngô văn Thế Tôn tại Linh Sơn
Thuyết pháp độ nhân như Hằng Hà sa số
(3)
Nhân liễu thử tâm nhân tự độ
Linh Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu
Minh kính diệc phi đài
Bồ Đề bản vô thụ
(4)
Ngã độc Kim Cương thiên biến linh
Kì trung áo chỉ đa bất minh
Cập đáo Phân kinh thạch đài hạ
Chung tri vô tự thị chân kinh
(5)


 







  1. Một nhà cha con (cùng không hiểu Pháp). Lương Vũ Đế 梁武帝, năm Phổ thông thứ 8, sai sứ đi thỉnh Bồ Đề Đạt Ma 菩提達摩 về thành đô là Kim Lăng. Đế hỏi: "Trẫm lên ngôi đến nay, xây chùa, chép kinh độ tăng không biết bao nhiêu mà kể. Vậy có công đức gì không?". Sư Đạt Ma đáp: "Đều không công đức. Tại sao không có công đức? Bởi vì những việc vua làm là hữu lậu chỉ có những quả nhỏ trong vòng Nhân, Thiên, như ảnh tùy hình, tuy có, nhưng không phải thật. Vậy công đức chân thật là gì?. Trí phải được thanh tịnh hoàn toàn. Thể phải được trống không vắng lặng, như vậy mới là công đức, và công đức này không thể lấy việc thế gian (như xây chùa, chép kinh, độ tăng) mà cầu được". Sau câu chuyện đối đáp này, Sư biết tâm vua không khế hợp được với pháp mình, bỏ đi.
  2.  Bạch Mã, Sở lâm: Chuyện Hầu Cảnh trước là tướng Đông Ngụy, sau hàng Lương rồi lại phản Lương, cưỡi ngựa trắng qua sông Trường Giang đánh Lương Vũ đế. Khi Hầu Cảnh hàng Lương, Đông Ngụy đưa tờ hịch cho Lương, có câu: "Sợ nước Sở mất vượn, họa lây đến cây rừng, cửa thành cháy, vạ lây đến cá dưới ao"
  3. Hằng Hà là một con sông ở Ấn Độ, hai bờ toàn cát. Hằng Hà sa số: nhiều như cát sông Hằng, câu này sau trở thành một thành ngữ
  4. Lục tổ Huệ Năng 六祖慧能, trong một bài kệ có câu:Bồ đề bản vô thụ, Minh kính diệc phi đài, Bản lai vô nhất vật, Hà xứ nhạ trần ai? 菩提本無樹, 明鏡亦非臺 本來無一物, 何處惹塵埃 (Bồ đề vốn không cây, Gương sáng chẳng phải đài, Xưa nay không một vật, Bụi bặm bám vào đâu?)
  5. Vô tự kinh: kinh không chép bằng chữ. Ý nói đạo ở tâm chứ không phải ở kinh kệ

Dịch nghĩa:

                     Đây là nơi phân phát kinh của Thái tử Chiêu Minh nhà Lương.

                     Thạch đài còn ghi hai chữ “Phân kinh”.

                     Nền đài chìm mất trong mưa và hoa rừng.

                     Trăm loài cây cỏ chết rét, khô héo cả.

                     Chẳng còn thấy kinh còn sót lại ở chốn nào.

                     Chuyện Lương Thái tử đã qua truyền mơ màng.

*

                     Thái tử thời trẻ đắm đuối với văn chương,

Ham việc giải thích với phân tích.

(Thật ra) linh văn không ti khoa ngôn ngữ.

Đâu là Kim cương đâu Pháp hoa,

Cảnh giới sắc không, mơ màng không tỏ.

Tâm si mê quy Phật, thì phật sinh ma,

Chỉ trong một niệm thì ma đã tới.

*

Lăng trong núi không dng đài hoa sen.                      

Ngụa trắng một sớm vượt sông Trường giang.

Rừng Sở cháy họa cho cây mà cũng vạ lây cho cá trong ao.

Kinh  cháy mà đài cũng sụp đỗ.

Lưu lại vô ích ngàn vạn lời nói,

(Để đám) ngu tăng đời sau tụng điếc cả tai.

*

Ta nghe đức Phật tổ tại Linh sơn,

Thuyết pháp độ người kể như cát sông Hằng.

Người nào hiểu cho cùng chữ tâm ấy thì có thể tự độ.

Linh sơn chỉ có trong tâm của mình.

Gương sáng và đài gương đều không có                

Bồ đề vốn không là cây.

*

Ta đọc Kim cương ngàn lẻ biến,                                   

Những điều chính sâu xa trong đó rất ảo diệu đều không tỏ rõ.

Cho đến khi đứng dưới đài Phân kinh.

Rốt cùng mới biết Không chữ mới là chân kinh.

     Ta có thể chia bài thơ này thanh mấy khổ (đoạn) NHƯ TRÊN để tìm hiểu. Khổ thứ nhất từ câu Đây là nơi phân phát kinh của Thái tử Chiêu minh nhà Lương đến câu Chuyện Lương Thái tử đã qua truyền mơ màng. Nguyễn Du tả lại cảnh đài phân kinh đã  hoang tàn, nền đài chìm lấp dươi mưa, trăm loại cây đều chết lạnh và héo khô. Hình ảnh tàn phế hoang lạnh khiến ta ngậm ngùi. Đài phân kinh đã mai một trong hoang lạnh. Thế thì kinh còn đến nay ở đâu?

     Khổ thứ hai từ câu Thái tử thời trẻ đắm đuối với văn chương đến câu Chỉ trong một niệm thì ma đã tới. Nguyễn Du chê bai cả hai cha con Lương Vũ đế và Chiêu minh. Con thì chết đuối (nịch) trong văn chương, chăm chắm lo phân lo giải. Bản chất Phật là không dính mắc với vật. Đã là không thì làm gì có kinh để mà phân với phát. Đã là linh văn thì không tại nơi khoa ngôn ngữ. Nguyễn Du khẳng định một triết lý nhà Phật: Ngôn ngữ đoạn đạo. Nếu chấp vào ngôn ngữ sẽ làm đứt con đường đến với Đạo. Cả hai Cha con đều mơ màng không chứng ngộ được thế nào là cảnh giới sắc và không, Đem cái tâm ngu muội mà theo Phật thì Phật chỉ là ma. Cả môt nhà, cha cùng con đều lầm lạc. Chỉ cần một niệm sai lầm thì ma đã tự đến. Đây là triết lý về sự sai lầm trong ý thức, khiến cho “ma đưa lối quỷ dẫn đường, lại tim những lối đoạn trường mà đi!” Biết bao sai lầm trong xã hội ta đã khiến cho con người đang phải sống chen với ma quỷ.

     Khổ thứ ba, từ Sơn lăng không dựng đài hoa sen, đến Lũ ngu tăng đời sau tụng điếc tai. Nguyễn Du chê việc làm vô ích của cha con nhà Lương và cả đám tăng ngu ngốc đời sau.

     Khổ thứ tư Ta nghe Phật tổ tại Linh sơn đến Bồ đề bản vô thụ. Nguyễn Du nhấn mạnh chữ Tâm trong kinh Kim cương: Phật tức tâm Tâm tức Phật. Nhân liễu thử tâm nhân tự độ. Tương truyền rằng một hôm trong pháp hội, Phật đến trước đại chúng bèn giơ lên một bàn tay. Chỉ mình Ca Diếp, vị đại đệ tử của Phật, nhìn Phật và mỉm cười. Phật cho là Ca Diếp đã ngộ được ý của mình. Từ đó xuất hiện phép “dĩ Tâm truyền Tâm” của thiền học, rất thâm thúy ảo diệu. Phương thức “Bất lập ngôn ngữ, Giáo ngoại biệt truyền” ra đời. Thiền sư Huệ Năng xuất hiện ở Trung Hoa với bài Kệ nổi tiếng Bồ đề bản vô thụ. Minh kính diệc phi đài. Bản lai vô nhất vật, Hà sự nhạ trần ai. (Bồ đề vốn không cây. Gương sáng cũng chẳng phải đài. Xưa nay vốn không gì là một vât. Làm sao vướng bụi trần), Ngài khẳng định mạnh mẽ rằng, tu thiền không nhất thiết cứ bám vào kinh văn mà mắc dinh. Vấn đề chính yếu là cái Tâm. Làm cho có được cái tâm thanh tịnh, không còn vướng mắc vào cái tiểu ngã của mình. Hòa được vào cái đại ngã tâm linh của chúng sanh và vũ trụ. Làm được như thế thì trong cái sát na đốn ngộ ấy, ta sẽ đạt tới niết bàn. Trở thanh một Bohdhi Sástva (vị Bồ tát) có cái tâm thế của bâc chính đẳng chính giác (Anudala SamiatSambodhi), Nguyễn Du đã đọc ngàn biến kinh Kim cương, mà vẫn không tỏ (minh) cái gì là ảo diệu trong đó. Chỉ đến khi đến cái đài đó, ông bắt gặp một cái trống không và đột nhiên đốn ngộ rằng Vô tự mới là chân kinh.

     Những ai đã đọc Kinh Kim cương bản dịch của Huyền Trang đời Đường, mà chính văn viết bằng chữ Phạn trên lá bối, nay đang lưu trữ ở một thiền viện tại Nhật Bản, sẽ thấy mỗi câu kinh đều nói đến tính Không của cái Tâm, thì mới thấy Nguyễn Du đã truyền đạt được giá trị minh triết Phật giáo ấy một cách rất thẳm sâu.

    Giá trị minh triết của bài thơ vì thế thật không thể nghị bàn “bất khả tư nghì”.

.

 

.

                       

 

           

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét