Nguyễn Khắc Mai
Tôi
lại về Yên Tử, lần này là để dự Hội thảo về Quy hoạch bảo tồn và tôn tạo Vùng
thiêng Yên Tử (tôi không gọi là khu Di tích Yên Tử), và dự lễ khánh thành Tượng
của Phật hoàng.
Chúng
tôi dậy sớm, để kịp lên đỉnh An Kỳ Sinh, nới an trí tượng của ngài. Từ bãi đỗ
xe, đường vào vẫn là thăm thẳm núi rừng, khiến càng thêm thú vị về cái câu của
Phạm Thái “Lên Yên Tử, Rất non cùng”.
Cú pháp nghịch ngợm, mà ba chữ rất non cùng, khiến cho cái ấn tượng hun hút, sâu thẳm của núi rừng cứ đọng mãi trong cái nguồn mỹ cảm, dù có bao nhiêu sự miêu tả khác, rất non cùng vẫn là cái khái quát tuyệt vời thú vị. Dễ có cả mấy vạn khách đi trẩy hội, dự Đại lễ 705 năm ngày viên tịch của Ngài.
Cú pháp nghịch ngợm, mà ba chữ rất non cùng, khiến cho cái ấn tượng hun hút, sâu thẳm của núi rừng cứ đọng mãi trong cái nguồn mỹ cảm, dù có bao nhiêu sự miêu tả khác, rất non cùng vẫn là cái khái quát tuyệt vời thú vị. Dễ có cả mấy vạn khách đi trẩy hội, dự Đại lễ 705 năm ngày viên tịch của Ngài.
Ngồi
trên cáp treo, thấy núi rừng trùng điệp, không thể không nhớ tới bài thơ của
Nguyễn Trãi, Đề Yên Tử sơn Hoa yên Tự, mà cụ Đào Duy Anh đã dịch, khó có bài dịch
hay hơn
“Trên
non Yêu tử chòm cao nhất,
Trời
mới canh năm đã sáng tinh.
Vũ
trụ mắt đưa ngoài biển cả,
Nói
cười người ở giữa mây xanh.
Muôn
hàng giáo ngọc tre gài cửa,
Bao
giải tua châu đá rủ mành.
Dấu
cũ Nhân Tôn còn vẫn đấy,
Trùng
đồng thấy giữa áng quang minh”.
Quả
thật con người khi đến với “Dấu cũ Nhân Tôn” đã lớn lên ngang tầm vũ trụ. ”Vũ
trụ mắt đua ngoài biển cả. Nói cười người ở giữa mây xanh. ”Chúng ta đến với Người
là đến với một tầm cao làm người, khiến ta không thể không vươn lên, để làm người
tử tế. Người xưa từng để lại một giá trị minh triết, coi con người là ngôi Nhân
hoàng, nghĩa là một trong ba ngôi lớn của vũ trụ. Nhớ lại hình như nước mình đã
vào cái Hội Nhân quyền của thế giới, liệu có thật sự biết tôn trọng con người
hay không. Làm cho xã hội biết tôn trọng con người, làm cho mỗi người cũng tự
biết tôn trọng mình là cái lẽ thiện lớn lao dường nào. Từ
cái ý niệm ấy, tôi bèn niệm câu thần chú Kim Cương, Gatê, gatê, Paragatê, Parasamgatê. (vượt lên, vượt lên, cố vượt lên, hãy quyết
vượt lên. ) Ngồi trên cáp treo mà vượt lên thì đơn giản quá. Cái khó là sự vượt
lên của con người vốn tham sân si, mà hai ngàn năm trăm năm dư, vẫn hễ có tí
quyền lực (hoặc là quyền chính trị, quyền kinh tế, quyền trí thức, kể cả quyền
tôn giáo, là lại tham sân si ). Nghĩ xa rồi lại nghĩ gần,
phút chốc đã lên đến Hoa yên. Rồi lại phì phò leo dốc. Tuổi U 90, lại phải tự động
viên mình thôi. . , lại Gate, Gate, vượt lên, cố vượt lên. Nói như đồng bào miền
núi, khắc đi khắc đến. Chúng tôi đã ngồi dưới chân tượng của Ngài.
Tôi ngồi tỉnh taị, niệm
kinh Kim cương “quán hạnh Bồ tát, thực hành sâu Prajna Pâramita...”, để làm cho
Tâm mình lắng lại , đặng có thể tiếp nhận, lắng nghe mọi âm sắc chung quanh. Những
bài diển văn quá nhiều ngôn từ, những tiếng niêm Phật, những lời bình luận, trò chuyện của hàng ngàn thiền tử. Chữ
thiền tử là chữ của Phật hoàng để chỉ những người tu Phật. Trời lồng lộng, nắng
vàng, gió nhẹ, những cờ phướn lay động. Và rực rỡ trên cao là pho tượng của
ngài, được đúc tại chỗ, với biết bao công phu và công đức. 68 tấn đồng và hàng
trăm tấn vật liệu được đưa từ chân núi lên chỉ bằng sức thủ công, dàn giáo lớn
bằng bê tông để cho 6 lò đúc đồng hoạt động. Giờ đây bức tượng của Phật hoàng
uy nghi, ánh vàng lấp lánh, thỉnh thoảng lại có một hồi quang sáng lòa lên. Tôi
chợt nghĩ hào quang của bức tượng lóe lên hay tâm tôi bừng sáng. Chung quanh
tôi là hàng vạn cái tâm đang hướng về tượng của ngài. Nhưng nhớ lại Ngài từng dạy
“Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền. ”Ngài cũng từng nói “Có có Không không. Dây khô
cây đổ. Mấy vị Thầy tu. Dập đầu trán vỡ”. (Bài giảng tại chùa Sùng Nghiêm. TNT
toàn tập Lê Mạnh Thát, tr430)Thế thì lập tượng của Ngài với cái tâm vô hay cái
tâm hữu. Và hôm nay chiêm bái di tượng của Ngài với cái tâm vô hay hữu. Không
được quên lời dạy của Ngài “Câu có, câu không. Từ nay, từ xưa. Quên trăng giữ
ngón. Chết đuối trên bờ. ”Nhìn với cái tâm hữu, sẽ thấy sắc đồng vàng óng, dáng
đẹp uy nghi, đắp y kiểu Nam tông. Hình tướng này có thâm ý gì đây... Đó là “giữ
ngón”, còn “trăng”là thế nào. Hãy quên tượng đi để nhập
được vào cái Tâm của Ngài. Ôi cái Tâm Vô của Ngài mênh mông và nhiều biết bao.
Ngồi
bên cạnh tôi là một người bạn mới quen, vui vẻ, xởi lởi, chu đáo. Anh là mgười
hướng dẫn, chăm lo cho chúng tôi, một nhóm những người nghiên cứu được mời tham
dự đại lễ. Hóa ra anh từng là một doanh nhân quốc doanh khá thành đạt, không phải
như Vinasin hay Vinaline. Mười mấy năm nay từ khi về hưu, anh thành tâm lo phật
sự. Nghe các bài diễn văn, anh nói, mấy trăm năm nay chẳng ai làm được như Phật
hoàng, bỏ ngôi vua như quẳng chiếc dép rách:đánh giặc xong, chiến thắng oai
hùng vẫn không cho tán tụng , ngợi ca, ông thấy không, cả một cuộc chiến chống
xâm lăng thắng lợi vang dội sang cả Ba tư, cũng chỉ có một vài bài thơ ca ngợi
xa xôi. , mà nào có kể công của người lãnh đạo, mà chỉ nói đến công lao của
nhân dân. -Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã. Sơn hà thiên cổ điện kim âu. Chiến
tranh là chia rẽ. Sau chiến tranh cho đốt hết hồ sơ những kẻ hàng giặc. Cố kết
thu phục nhân tâm đến như thế là cùng. Tại sao những bài học lịch sử đẹp như thế
mà không học lấy chút nào. Tôi bảo có một hiền triết phương Tây nói, nhân loại
chẵng bao giờ học được cái gì ở lịch sử cả. Thật là bi kịch. Cái tâm của chúng
ta hôm nay sao lại cách xa nghìn trùng so với tiền nhân như thế. Nhớ lại, hôm
qua, khi dự Hội thảo Quy hoạch Vùng Thiêng Yên Tử, tôi có thưa với một vị Tăng
trong Ban Văn hóa của Giáo hội. Rằng chúng ta bàn đủ thứ để quy hoạch. Nhưng có
một việc cơ bản nhất, quan trọng nhất, là để giữ được cái tính thiêng của Yên Tử,
thì trên hết là phải có những danh tăng trụ trì ở đây. Người xưa nói, núi phải
có tiên mới danh. Nước phải có rồng mới thiêng. Giáo hội nên tính đến chuyện
này. Vị sư bảo đúng, nhưng mà khó đấy
Trên đường hạ
sơn trở về, tôi thầm nghĩ. Những Minh triết Ngài để lại còn phải nghiền ngẫm
nhiều lắm.
Bây giờ ngồi viết
những dòng này, tôi chợt nhớ tới Nguyễn Du từng nói mình đã đọc cả ngàn lần
kinh Kim Cương, bèn giở sách coi lại. Nguyễn Du từng có bốn câu thơ tuyệt hay:
Ngã
độc Kim cương thiên biến linh,
Kỳ
trung áo chỉ đa bất minh.
Cập
đáo phân kinh thạch đài hạ,
Tài
tri vô tự thị chân kinh.
Nghĩa là, Ta đã đọc kinh Kim
cương cả ngàn lần, thế mà những điều sâu xa trong đó đều không hiểu rõ. Chỉ khi
đên dưới đài phân kinh này, mới biết kinh “không chữ” mới là chân kinh. (Bài
thơ Đài đá phân kinh của thái tử Lương Chiêu Minh)
Phải
đem cái tâm nào đây để ‘đối cảnh” với Phật hoàng, để có thể thâm nhập vào cái
Tâm của Ngài. Liệu tôi có thể chẳng trụ vào đâu cả mà đón nhận được cái Tâm của
Ngài chăng. Cái chân kinh vô ngôn mà Ngài trao lại sẽ tu và học thế nào đây.
Ô Đồng
Lầm tháng Một Quý Tỵ, năm thứ 705 ngày Phật Hoàng Viên tịch.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét