Nguyễn Khắc Mai
TMT: Nhân dịp Mừng Xuân Bính Thân 2016, Cụ Nguyễn Khắc Mai gởi đăng bài thơ xuân để tặng Quý vị xa gần, mong các vị có hứng thú thì họa lại cho vui!.
Xuân lai Long Đỗ cận hà như ? |
Câu thơ ấy, của cụ Nghè Đông Tác Nguyễn văn Lý, có nghĩa là: Xuân tới, Thành Long Đỗ gần đây có chuyện gì? Long đỗ là “rốn rồng”, một tên khác gọi Thăng long-Đông đô-Hà nội.
Cụ Chí Đình Nguyễn Văn Lý (1795-1868) vị Tiến sĩ tài danh, được gọi trìu mến là Cụ nghè Đông tác. Đông tác là quê hương của cụ, nay là địa bàn của mấy phường Phương Liên, Trung Tự, Kim Liên, Quận Đống Đa, Hà Nội. Cụ là nhà nho hiển đạt, làm quan, làm thầy. Cuộc đời làm quan của cụ đã trải hầu khắp miền đất nước; lúc ở Bắc thành, lúc ở Phú Xuân, lúc Nam, Ngãi, Bình, Phú; có lúc chấm thi ở Gia Định - Nam Kỳ. Làm thầy, cụ dạy học rất “mát tay”, đã đào tạo nên nhiều bậc đại khoa đương thời.
Sự từng trải ấy, khiến cho thơ văn của cụ là bức tranh phong phú về cảnh sắc đất nước, là sự da dạng của hình ảnh con người với tâm tình trong mọi quan hệ xã hội - vua tôi, cha con vợ chồng, thầy trò, quan và dân, đồng liêu, đồng học…Thơ văn của cụ là một phác thảo rất giá trị về xã hội học lịch sử của một thời đã đi qua không trở lại. (xem Chí Đình Nguyễn Văn Lý - Tổng tập thơ văn, NXB KHXH).
Cụ Chí Đình Nguyễn Văn Lý (1795-1868) vị Tiến sĩ tài danh, được gọi trìu mến là Cụ nghè Đông tác. Đông tác là quê hương của cụ, nay là địa bàn của mấy phường Phương Liên, Trung Tự, Kim Liên, Quận Đống Đa, Hà Nội. Cụ là nhà nho hiển đạt, làm quan, làm thầy. Cuộc đời làm quan của cụ đã trải hầu khắp miền đất nước; lúc ở Bắc thành, lúc ở Phú Xuân, lúc Nam, Ngãi, Bình, Phú; có lúc chấm thi ở Gia Định - Nam Kỳ. Làm thầy, cụ dạy học rất “mát tay”, đã đào tạo nên nhiều bậc đại khoa đương thời.
Sự từng trải ấy, khiến cho thơ văn của cụ là bức tranh phong phú về cảnh sắc đất nước, là sự da dạng của hình ảnh con người với tâm tình trong mọi quan hệ xã hội - vua tôi, cha con vợ chồng, thầy trò, quan và dân, đồng liêu, đồng học…Thơ văn của cụ là một phác thảo rất giá trị về xã hội học lịch sử của một thời đã đi qua không trở lại. (xem Chí Đình Nguyễn Văn Lý - Tổng tập thơ văn, NXB KHXH).
Nguyên văn toàn bài thơ ấy như sau:
Kỷ Dậu xuân, Chu Trưng quân tương phỏng, dạ túc, thi tặng.
(Xuân Kỷ Dậu(1849) ông Chu Trưng đến thăm, ngủ lại, làm thơ tặng.
Xuân lai Long Đỗ cận
hà như,
Lê
trượng tiêu nhiên bạch phát sơ.
Thả
phóng hình hài đồng Trĩ tháp,
Cánh
tương tính lý khán Chu thư.
Dị
nhân hà xứng Nhiêm Tô lữ,
Ngô
quá thiên tri Bốc tử cư.
Cận
hoạt đồn nhi thâu quốc thủ,
Hữu
đan cửu tín thọ diêm lư.
Dịch nghĩa:
Xuân về Long Đỗ gần đây ra sao,
Kẻ chống gậy lê tiều tụy, tóc bạc lưa thưa.
Ngã mình cùng giường Tử Trì,
Lại
đem tính lý cùng đọc Chu Dịch.
Người
dị thường ai xứng bạn cùng Nhiêm Tô,
Ta
sai lầm nên riêng biết sự lựa chọn của Bốc tử.
Gần
đây cứu sống con tôi phải nhờ đến bậc kỳ cựu trong nước,
Có
linh đan nên tin rằng có thể giúp cho dân sống lâu.
Câu hỏi “Xuân lai Long Đỗ cận hà như” khiến tôi nghĩ tới
mấy chuyện trong năm ở Hà nội. Nào ngôi nhà ngất nghểu sai phép ở phố Lê Trực, nào
chuyện đốn hạ cây xanh, tàn phá cái “hồn thu thảo” của Thăng long , nào học
sinh Ninh Hiệp vì bố mẹ mà bãi khóa. Nào chuyện Đại hội với biết bao đồn đoán, bói
mò, và cả niềm hy vọng có “linh đan” cứu dân…Bèn vận hết vốn chữ nghĩa chỉ chứa
trên cái mẹt (xưa khi đi học chữ nho, người ta hay hỏi, đã được mấy mẹt chữ. Xem
Tô Hoài: ”Mực Tầu Giấy Bản”, truyện ngắn, kể việc học của Tô Hoài thuở bé), làm
bài thơ họa. Xin chép ra đây, hầu chuyện bạn đọc cho vui vào mấy ngày Xuân Bính
Thân này.
Xuân lai Long Đỗ cận hà như,
Cao
ốc nguy nga ngạo thái hư.
Thu
thảo tán hồn do triệt thụ,
Học
sinh vị thị quyết bài thư.
Dị
nhân thùy xứng tiền trình lữ,
Đại
hội thiên tri Bốc tử cư.
Quốc
tộ lạc đằng dân bả ác,
Linh
đan cửu tín tại thiên thư.
Mạn phép dịch như sau:
Xuân về Long Đỗ đã làm sao,
Lê
Trực một tòa ngạo nghễ cao.
Thu
thảo mất hồn cây đốn hạ,
Học
sinh vì chợ học không vào.
Anh
tài ai xứng đường hoài bão,
Đại
hội sờ voi lũ bói mò.
Vận
nước lạc đằng Dân nắm chão,
Thuốc
tiên đã định sách trời trao.
Kính chúc Xuân mới Bính Thân an vui, hạnh phúc.
Ghi chú:
* Long Đỗ-rốn rồng , một tên xưa của Hà nội :Thành Long Đỗ.
* Giường Từ Trĩ, điển cố bên Tàu, đời Tống , ông Trần Phồn có bạn là Từ Trĩ, vẫn
giành một chiếc giường riêng cho bạn.
* Chu thư, sách Chu Dịch.
* Nhiêm Tô, tức Tô Đông Pha, danh sĩ đời Tống.
* Bốc tử, ở đây lấy nghĩa người bói toán.
* Quốc tộ, vận nước. Lạc đằng, dây mây quấn quýt. (Xem bài thi kệ bàn vận nước:
Quốc tộ như đằng lạc. Nam thiên lý thái bình. Vô vi cư điện các. Xứ xứ tức đao
binh). Vận nước khó khăn, rối rắm, phức tạp , nhiều đầu mối, như dây mây trong
rừng quấn quýt. Muốn trời Nam luôn trong cảnh thái bình thịnh trị, (thì) công
việc triều chính phải vô vi. Nếu làm được như thế nơi nơi
sẽ không còn binh đao loan lạc, sẽ yên ổn, thái bình.
* Dân nắm lấy chão, sợi dây lớn, cái giường mối của đất nước, đó thật sự là
linh đan cứu nguy của mọi thời, nó như quy luật trời định đó.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét