Sự phản bội Mùa Thu! |
TMT: Lại
một Mùa Thu đang đến, Mùa Thu thời tiết thường rất đẹp, buổi đêm về sáng trời
se lạnh, ban ngày có thể có nắng nhưng không gắt. Cảnh thu đem đến một nỗi buồn
man mác, có lẽ làm người ta chạnh lòng nhớ cố nhân hay nhớ về một mùa thu buồn, mùa thu thất vọng.
Có một lần ngồi nơi thềm nhà ở Ô Đồng Lầm. Bấy giờ, nhà cửa còn
lúp xúp dưới tán cây, nên bầu trời thu Hà nội nhìn không bị cắt nham nhở như
hình tượng tranh trừu tượng, méo mó, xô xảm. Tôi nhìn thấy một đàn cò bay mải
miết về phương nam. Tôi làm bài thơ Heo May có mấy câu:
Mùa Thu về, cùng bầy chim di trú.
Cánh khỏa bồng bềnh, man mác heo may.
Tưởng đất trời vẫn như
ngàn năm,
Ngỡ lòng mình vẫn như ngàn năm…
Tôi nghiệm ra lòng người có hai
ngã. Trong văn thơ, tâm tình của con người, đón Thu, gặp Thu, chờ Thu, nhớ tiếc
Thu, đều một lòng chung thủy.
Khá xa trong lịch sử có Nguyễn
Trãi:
“Nước mấy trăm Thu còn vậy,
Nguyệt bao nhiêu kiếp nhẫn đầy”.
hay
“Kho Thu phong nguyệt đầy qua nóc,
Thuyền chở yên hà nặng
vạy then”
hay
“Lừa tìm ngàn bá nhờ mai bảo,
Thuyền chở dòng Thu có
nguyệt bao”…
Còn Nguyễn Du, để lại cho ta một
tình chung thủy kỳ lạ: “Rừng phong Thu đã nhuộm màu quan san”, khiến mỹ cảm của
ta lại còn xao xuyến cả khi găp “Mùa Thu vàng” của trời Âu. Cận kề hơn có Lưu Trọng Lư:
Em không nghe Mùa Thu,
Dưới trăng vàng thổn thức.
Con nai vàng ngơ ngác,
Đạp trên lá vàng Thu.
Gần gũi ta hơn, một cặp tình
nhân “Chỉ còn anh và em. Cùng Mùa Thu ở lại”. Biết bao tình yêu, nhớ, thương,
cảm Mùa Thu. Đây là ngã của tâm hồn đằm thắm, của cái nhân tính hồn nhiên hòa
hợp với Đất Trời làm một! Vì thế nó có chung có thủy, là sự gắn bó tự nhiên.
Con người nhìn nơi cõi nhân sinh, luôn thấy “Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà”.
Còn cái ngã khác, một lối rẽ phụ
phàng, tệ bạc. Đó là những lời thề nguyền, chợt hứng vào một mùa thu cũ. Có
chàng thi sĩ lãng mạn “Ai về gặp lại mùa Thu cũ. Nhặt hộ cho ta chiếc lá vàng”.
Còn tôi, đang ngồi hối tiếc cho mùa thu cũ.
”Thu đi cùng năm tháng”. Còn con
người thì những thế hệ đổi thay. Nó đổi thay luôn lời thề cũ với Mùa Thu. Mùa
Thu ấy, biết bao thề nguyền, biết bao hứa hẹn, biết bao những lời có cánh (nay
vì có cánh nên chúng đã bay vuột mất hút con mẹ hàng lươn!). Tôi còn nhớ, bấy
giờ có cuộc “Ân khoa” (khoa thi ơn huệ) của Chính phủ Trần Trọng Kim cho phép
học trò lớp nhì nhị (cours moyen deux)-còn một năm nữa mới hết Tiểu học cũng
được thi primaire, nhờ đó tôi thi được vào Trung học Khải Định. Mỗi buổi sáng
trước giờ học đứng ngay ngắn giơ nắm tay trái ngang trán hô những lời thề.
Trong trường thì như thế, ngoài
phố, những đoàn nông dân từ các huyện ngoại thành vừa đi vừa vung tay hô những
lời thề cảm động. Nhưng đó là những lời thề gió bay của dân. Còn năm đứa chúng
tôi (thằng Thanh, thằng Nghị, thằng Quế, thằng Điền và tôi), một chiều chạng
vạng bí mật họp ở góc đường Âm Hồn Huế đã cùng nhau thề Việt minh đánh Pháp
giành độc lập chúng mình phải theo đến cùng. Hai đứa, Nghị hy sinh ở Dương
hòa-Huế, Điền ở Củ chi. Nghị mất không tìm được mộ, tôi từng xin với Lãnh đạo
thành phố Huế cho lập một mộ gió ở nghĩa trang thành phố mà không được, đành
nhờ anh bạn thợ mộc làm cho cái bài vị, đặt thờ ở nhà người em trai, từng là
Đại úy quân lực Cộng hòa, còn Điền cũng chỉ có mộ gió ở Thủ Đức!
Chúng tôi tự hào đã giữ được thề
nguyền qua “Chín năm”. Hai đứa đã hy sinh, còn Qué, gặp lại tôi và Thanh ở Gài
gòn, hắn bảo, năm 1955 mới được ra tù, nhưng em biết cải cách ruộng đất ở miền
Bắc tàn nhẫn quá, nên quyết bỏ Việt minh, chỉ đi dạy học. Tôi và Thanh trong
nhóm Việt Dũng Huế ra Bắc đi dạy học và làm nhiều việc khác.
Cuộc đời khắc nghiệt, éo le, đầy
nghịch lý. Cứ mỗi Mùa Thu về lòng lại thấy phân tâm. Mùa Thu của đất trời thì
vẫn thế, vẫn heo may, vẫn còn những cánh cò di trú, vẫn thấy màu nắng vàng xao
xuyến trong sắc hoa cúc, đôi lần về vùng quê vẫn còn hy vọng được thấy lại
những giải tơ trời, lại đọc thơ mùa thu cổ điển, lại nhớ khúc Buồn tàn Thu của
Văn Cao… Nhưng trong sâu thẳm của tâm tưởng lại luôn thấy, mỗi năm lại mỗi nặng
nề hơn. Chúng ta đã phản bội Mùa Thu rồi. Gì thì gì, thế hệ trẻ Mùa Thu năm xưa
chúng tôi không thể cho là mình vô can trong mọi chuyện thị phi sau này. Tôi và
bạn bè trang lứa vẫn bảo nhau, chúng mình không thể tránh cái “cộng nghiệp”
(cùng chịu nghiệp báo khi cùng tham dự với cộng đồng tạo nghiệp ác), như nhà
Phật dạy.
Có những lời thề trang trọng,
bút mực và dấu son đỏ lọi ngôi sao 5 cánh. Chúng ta nhớ lại lời thề của Tuyên
ngôn Độc lập ở Ba Đình. “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình
đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những
quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do, và quyền mưu cầu hạnh
phúc”. và nữa: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền
lợi và phải luôn luôn dược tự do và bình đẳng về quyền lợi”. Còn
nhiều những tuyên bố đầy khát vọng cao thượng “nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc
tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Đây là lời
tuyên bố trong Thư gửi Ủy Ban Nhân dân các Kỳ Tỉnh, Huyện và Làng. (công bố
ngày 17-10-1945).
Cái Hiến Pháp 1946 của mùa Thu
xưa trang trọng thế, tiến bộ thế, kép công thế. Bởi vì Nó đã được xây dựng
trong tinh thần vô ngã của hiện thực đa nguyên đa đảng tinh thành, chữ tinh
thành là chữ của mùa Thu ấy. Sau này ít thấy dùng. Thật sự Nó là bản Hiến pháp
của những khát vọng của Đông Kinh Nghĩa Thục, của Phong trào Duy Tân, Đông du,
của hồn thiêng Hoàng Hoa Thám, của Nguyễn Thái Học, của Phạm Hồng Thái, của
biết bao liệt sĩ anh hùng đã bỏ mình vì một nền Đôc lập, một nền Dân chủ, nhân
quyền…
Nó ra đời trong tiếng hát say mê
của cả một dân tộc thật sự khao khát “Tiến lên Nền Dân chủ Cộng Hòa”. Biết bao
gởi gắm, biết bao kỳ vọng cho cuộc đời, cho con người, cho một “Tổ quốc vinh
quang sánh vai được với cường quốc Năm Châu”… Bây giờ đọc lại những văn kiện cam
kết, tương nhượng lẫn nhau, đảng Cộng sản (Việt Minh) 2 ghế, đảng Đại Việt 2
ghế, đảng Quốc dân 2 ghế, đảng Dân chủ 2 ghế và 2 ghế để giành cho hai nhân sĩ
Nam bộ, sao lại thấy bồi hồi cái không khí hòa hợp đẹp đẽ đến thế. Cả một Chính
Phủ thề sẽ làm đầy tớ của Dân quyết không phải là lũ tham quan ô lại, đè đầu
cởi cổ dân như thuở xưa hủ bại.
Nước ta từng có Hiến Pháp Cọng
hòa đại nghị, Nhà nước tam quyền phân lập đa nguyên. Nhân sĩ, trí thức yêu nước
đầy tình yêu Dân tộc, đầy tinh thần tiến bộ của Thời đại,đâu có lú lẫn, đần
độn, đã cùng nhau phát thảo một con đường hợp lý hợp thời, hợp lòng người.Lịch
sử thì không có chữ: “Nếu”. Nhưng lâu nay tôi vẫn nghĩ Nó vẫn có một khái niệm
tựa như khái niệm “phản hạt, phản vật chất” vậy. Bởi vì từng có một thế giới
chưa thành hiện thực nhưng đã được hình dung khá rõ rệt,đã chớm nở như những
chồi nụ ban đầu.
Vì thế cái Phản Mùa Thu chính là
sự nuối tiếc khôn nguôi, là sự phản tĩnh, là nỗi sám hối, là sự ân hận, là sự
tự vấn lương tâm, cũng là sự oán trách, mà cũng còn là sự kết án khó tha cho
những tội lỗi phản phúc!
Thì đấy, bắt đầu từ năm 1959,
chính những người chủ xướng Việt Minh năm xưa, chính mình chứ không ai cả, đã
xé ném vào cái “Spam lịch sử Bản Hiến Pháp của Mùa Thu cũ 1946! Bây giờ thì cái
tinh thần Đa nguyên, hòa hợp đã bị xé bỏ rồi. Thay cho nó là một thái độ độc
nguyên độc tài. Cớ sao nền văn hóa Việt nam cứ quyết không sang trang, dẫu Thời
Đại đã đổi thay, cái ý chí, cái dã tâm phong kiến quân chủ vẫn y nguyên, chỉ
những hình thức thì có khác hơn. Lịch sử đang lặp lại, dẫu ông Mác nói nó lặp
lai ở một vòng xoáy ốc cao hơn. Trong các triều đại cũ của Việt Nam từng thấy
lặp lại như chu kỳ, mấy vua khởi nghiệp, giỏi giang, nhưng cũng tru di những
công thần khai quốc. Rồi đám vua sau tha hóa nhanh chóng, có kẻ còn bị khinh là
“vua quỹ”, “vua lợn”. Nhiều công thần của Mùa Thu cũng bị “tru di” vì trái ý
“thiên tử”.
Trong thiên cách ngôn của Kinh
Thánh có một câu rất hay: “Như thế đó, sấm chớp nhiều mà không có một giọt mưa.
Những lời hứa hẹn cũng như vậy”. Tự do. Hạnh phúc của nhân dân, quyền lực của
Dân… cứ như tấm da lừa ngày một co lại. Khi Nguyễn Khuyến ngậm ngùi “Có tiền
việc ấy mà xong nhỉ. Đời trước làm quan cũng thế a?!” Tôi phải đánh một dấu ?
thêm một dấu than!, bởi vì không còn là hiện tượng, mà nay nó đã là bản chất
cái thể chế, nó đã là như vậy rồi.
Chính những người viết “Những
vấn đề của Dân cày”, những người từng hô hào ruộng đất về tay nông dân… thì nay
chính họ lại chủ trương ruộng đất là trong tay đảng, trong tay nhà nước, là
công hữu. Về vấn đề này, họ không chỉ phản bội lời hứa với nhân dân mà còn là
sự phản bội trắng trợn tư tưởng của Các Mác, người mà họ luôn suy tôn là vị tổ
sư của chủ nghĩa. Chính Mác đã cải chính cái quan niệm hồ đồ về “phải viết trên
lá cờ khẩu hiệu xóa bỏ tư hữu”. Cuối đời, ông đã sám hối: “Những nhà sản xuất
(doanh nhân) chỉ có tự do một khi họ có quyền sở hữu về: đất
đai, nhà xưởng, tàu thuyền, ngân hàng, tín dụng…” Biết bao
nghị định công nhận quyền báo chí tư nhân, tự do. Riêng về quyên lập hội ngày
nay còn thua xa cái thời nhà vua Bảo Đại vừa tuyên bố Độc Lập tháng 3-1945, thì
tháng bảy đã ra một loạt nghị định trong đó có nghị định thả hết tù chính trị
và nghị đinh về quyền lập Hội của Dân!
Sau Hiến Pháp 1959 do chính Hồ
Chí Minh chủ trương soạn thảo, tiếp theo là một loat những Hiến pháp xóa bỏ
tinh thần đa nguyên hòa hợp dân tộc, thượng tôn pháp luật, thu hẹp quyền của
Dân ngày càng nống lên quyền của đảng, khẳng định đường lối theo chế độ Xã hội
chủ nghĩa đã bị nhân loại lên án, đã và đang làm cho Việt Nam ngày càng lạc
hậu, xã hội băng hoại, suy đồi. Nhân dân lao động càng bần cùng, làm không đủ
sống nhưng quan chức của đảng thì quyền lực mỗi ngày càng to, tài sản mỗi ngày
một lớn, đẩy tới mâu thuẫn xã hội ngày thêm trầm trọng. Sự lệ thuộc vào Trung
hoa bá quyền Đại Hán ngày một sâu, chủ quyền Đất nước ngày càng bị uy hiếp. Có
một lần, Anh Tư Sang nói muốn nghe điều cay đắng, bấy giờ tôi dẫn Hồ: “Cay đắng
chi bằng mất tự do”. Bây giờ khi chúng ta kỷ niệm Mùa Thu Xưa, thì phải thấy
rằng cái cay đắng nhất là ta đã phản bội Mùa Thu. Vì chúng ta (xin tha tội cho
tôi dùng chữ chúng ta), vì chúng ta đã bỏ “dân chủ cộng hòa”, lại đi xây dựng
một kiểu chế độ mà nhân loại tiến bộ, văn minh đã lập Tòa án kết tội!
Phản phúc, bội bạc, đổi trắng
thay đen, lọc lừa, dối trá, xưa cũng như nay, trong chế độ phong kiến hay “cộng
sản” chung quy cũng ở ba điều: Nhà Phật bảo tham, sân, si. Cái ông Liệt Ninh,
cộng sản Nga thì nói toẹt ra là: dốt, tham và độc tài.
Kẻ phản phúc bao giờ cũng tráo
trở, chúng đánh tráo khái niệm, lấy ngụy biện làm phương pháp tư duy, coi sự
lừa dối như là phương thức chính thống, bắt cả thiên hạ tuân theo sự ngụy trá,
lừa dối của mình. Mọi danh xưng không còn chính xác nữa. Ngày nay, ngay cả cái
ông Mác bên Đức cũng phải than thở: “Một khi chính phủ lừa dối họ buộc dân phải tin
theo sự lừa dối của mình, khi đó dân chúng hoặc trở thành những người mê tín
chính trị, hoặc sẽ trở thành nhóm người quay lưng lại với đời sống quốc gia mà
chỉ còn lo cho việc cá nhân của riêng mình”.
Vì thế minh triết xưa của Á Đông
rất coi trọng chính danh, chính thống, chính nghĩa. Có điều trong lịch sử vẫn
vô khối kẻ phản chính danh, phản chính nghĩa, phản chính thống. Có lẽ tôi cho
rằng cái câu này về thuyết “chính danh” trong Lã Thị Xuân Thu là rất đáng
nghiền ngẫm. “Danh chính thì trị, danh mất thì loạn. Kẻ làm cho mất danh, là kẻ
nói, chủ trương quá mức. Nói, chủ trương quá mức, tức là biến cái có thể, cái
cho phép, thành cái không có thể, không cho phép, nên cái phải biến thành cái
không phải: biến cái đúng thành cái không đúng, nên cái sai thành cái không
sai…”
Sự phản bội Mùa Thu còn có điều
này nữa. Đó là người ta đã đánh mất cái chính danh trước hết là của mình (đảng,
chính phủ, quốc hội, mặt trận nền kinh tế …) rồi tiếp theo là chính danh của
chế độ chính trị, của các thang bậc giá trị… Sự rối loạn bắt đầu nảy sinh rồi
phát triển liên tục. Nói giả dụ như cái danh xưng là “Cộng Hòa Xã Hội Chủ
Nghĩa”, thì chữ cộng hòa may ra hàng mấy trăm năm nay người ta đã nghiên cứu
giải thích, hiểu được, chứ cái gọi là “chủ nghĩa xã hội” nhất là cái gọi là
“chế độ xã hội XHCN” thì hiện nay chỉ có các quý ông Mác, Ăng ghen, Lê nin, Hồ
Chí Minh. Mao Trạch Đông ở dưới cõi âm may ra mới giải thích được. Nhưng hiện
nay họ giải thích bằng lời lẽ, ý nghĩ của cõi âm thì làm sao chúng ta có thể
hiểu được. Ngay cả tiến sĩ Fidel may còn sống, quyết cũng không thể biết gì để
giải thích, nên mới cho mời anh Trọng sang để lên lớp. Ai ngờ riêng cả Mỹ La
tinh thì quyết sập cửa, không nghe. Cho nên người xưa nói danh không chính thì
ngôn không thuận là vậy.
Bây giờ thì sao đây! Tôi ngẫu nhiên nhớ tới lời nói ấy trong một quãng cáo trên TV.
Con người thì vẫn khỏe, nhưng vi khuẩn đã đổi gien thì phải thay đổi xà phòng
để diệt vi khuẩn. Có ý nghĩa triết lý đường phố đấy chứ. Phải diệt lũ vi khuẩn
mới, phải diệt cả một bầy sâu, xà phòng mới chính là một năng lượng xã hội mới.
Ông Trọng bảo phải có trí thức có khí phách. Có lẽ phải nói tri chứ không phải
trí. Đó là những hiểu biết mới, trí tuệ mới để hiểu đúng các “danh” – khái
niệm, phạm trù, lĩnh vực… Phải làm cho danh đúng với thực, để khỏi bị dân Nam
bộ chọc quê: nói zậy mà không phải zậy!
Còn khí phách thì phải dám nhận
sai lầm, tội lỗi. Cái tội phản bội Mùa Thu, rồi áp đặt một lý thuyết hồ đồ, một
mô hình xã hội trái với đạo lý dân tộc, trái với lẽ tiến hóa của thời đại, của
một Nhân Loại mới, hơn nữa lại còn cường điệu mọi cái xấu xa của chế độ vua
chúa đã trở thành phản động kéo lùi cả dân tộc lạc hậu xa so với những nước mà
trước đây ta chẳng thua kém gì. Tôi từng nhớ Mác nói rằng “nếu sám hối thật tâm
thì có cơ cứu rỗi”.
Vì đây không phải là bài luân
thuyết, tôi chỉ muốn giải bày chút tâm tình khi Mùa Thu đến. Tôi chợt nghĩ tới
bài tạp bút cua Lỗ Tấn, bài Hy vọng. Bấy giờ ông hình dung dân tộc Trung hoa
như một người ngủ say trong một cái lồng pha lê kín, nếu cứ để anh ta ngủ yên
thì cũng chết, nếu đánh thức anh ta dậy thì anh ta cũng không thể nào thoát ra
được. Ông chỉ còn cách đặt niềm hy vọng. Ông bảo hy vọng cũng giống như con
đường. Trái đất xưa không có đường, nhân loại cứ đi rồi thành đường, cứ hy vọng
thế nào cũng thành. Dân Trung hoa nay đã thức dậy, nhưng họ lại đang làm ta
thất vọng.
Bây giờ thì sao đây! Cái câu vu vơ trên tivi giờ đang trở thành câu hỏi lớn. Tôi cũng hy vọng như Mác, “một
khi lịch sử có câu hỏi thì nhất định sẽ có câu trả lời”.
Mùa Thu này Hà Nội có trả lời
tôi không?
Trong trông chờ, tôi gởi tặng
các Bạn hai bài thơ của Nguyễn Trãi như một câu trả lời từ lịch sử.
Bài I : TRĂNG THU NGẪU HỨNG*
Buồng
không ngủ dậy nhẫn trầm ngâm,
Lòng khách lâng lâng đỉnh
hết trầm.
Khoảng lặng đất trời kinh
vạn biến,
Cảnh nhàn ngày tháng giá
thiên câm (kim).
Thói nho lạnh nhạt tình
đời bạc,
Cõi thánh rong chơi vị
đạo thâm.
Đọc hết sách pho đều vậy
cả,
Mai già bên cửa dạo cung
cầm.
Bài II : BẢO KÍNH CẢNH GIỚI, BÀI V. **
Phúc của
chung thì họa của chung,
Nắm thì (1) họa khỏi,
phúc về cùng,
Văn chương chép lấy đôi
câu thánh,
Sự nghiệp tua gìn phải
đạo trung.
Trừ độc trừ tham trừ bạo
ngược,
Có nhân có trí có anh
hùng.
Nhìn cho biết nơi dường
ấy,
Chẳng thấp thì cao ắt
được dùng.
Ghi chú:
*Ức Trai Thi Tập,
bài 83. Đào Duy Anh dịch. Nguyễn Trãi Toàn tập NXBKHX 1976.
**Sách đã dẫn. (1): Nắm
thì, nắm được thời cơ, thời thế.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét