TRƯƠNG SỸ TÂM
(Đại học Văn Hóa Hà Nội)
Dương sự thủy mạt 洋事始末 tạm dịch: Đầu đuôi việc
Tây dương [đánh chiếm Đại Nam]) là một tác phẩm sử học viết bằng chữ Hán, rất
đáng chú ý trong kho tàng thư tịch Việt Nam. Sách được biên soạn theo thể kỷ
mạt 始末 một trong
những thể tài cơ bản trong việc biên soạn sử học có kết cấu giống như Thông giám kỷ sự bản mạt 通鑒紀事本末của Viên
Khu 袁樞 (1130-1205)
đời Tống. Tác giả đã trích sao, cải biên những ghi chép lịch sử dài 1362
năm, trong bộ lịch sử đồ sộ Tư trị thông giám 資治通鑒 của nhà sử
học Tư Mã Quang 司馬光 khuôn vào các đề mục, phân theo loại từ thành
239 chuyên đề. Mỗi sự kiện lịch sử đều trình bày quá trình phát sinh phát triển
từ bắt đầu đến kết thúc rất ngắn gọn mà đầy đủ.
Dương
sự thủy mạt ghi chép các sự kiện về quá trình xâm lược Đại Nam của thực
dân Pháp, từ năm 1848 đến năm 1888. Những sự kiện biểu hiện thái độ và sự phản
kháng của triều đình nhà Nguyễn, các cuộc khởi nghĩa của nhân dân và sĩ phu yêu
nước, các chính sách về kinh tế-văn hóa-xã hội mà chính quyền thực dân áp đặt
trên toàn lãnh thổ Việt Nam được tóm lược khá rõ ràng, minh bạch.
“Sách chép các việc người Pháp đến
xâm lược đánh chiếm nước ta; chép các việc xảy ra từ năm Đinh Mùi, mùa xuân
tháng 2, niên hiệu Thiệu Trị thứ bảy (1847) việc hai chiến thuyền Pháp vào Đà
Nẵng. Phần chữ son ở đầu trang đã chua không chính xác “thuyền người Tây đến
nước ta lần đầu.” Thân sách: từ tờ 1 đến 146 chép bắt đầu từ năm 1847 như đã
nói trên. Tờ cuối (tờ 146) chép đến tháng 11 năm Đồng Khánh thứ ba (1887). Đoạn
này chép các việc người Pháp đưa vua Hàm Nghi sang đày ở An- giê- ri, việc trợ
cấp cho Hàm Nghi do triều đình Huế chịu trả và một vài việc về tổ chức Nha Kinh
lược Bắc Kỳ. Sau cùng từ tờ 147 đến 150 chép bản điều ước – bản dịch chữ Hán –
giữa triều đình Huế và Pháp. Điều ước đề ngày 15/3/1874, gồm 22 khoản. Tờ 151
đến 156 chép một bản điều ước khác – bản dịch chữ Hán – giữa triều
đình Huế và Pháp đề ngày 31/8/1874, gồm 29 khoản
“Ngoài ra ở trên đầu một số trang
có tiêu đề bằng chữ son một số việc lớn chép trong sách:
“Tờ 1: Việc chiến thuyền Tây đến
nước ta trước nhất. Tờ 8: thời Tự Đức chiến thuyền Tây lại đến Đà Nẵng. Tờ 13:
thành Gia Định bị hãm. Tờ 29b: thành lớn ở Gia Định không giữ nổi. Tờ 30:
Nguyễn Bá Nghi được sung làm Khâm sai đại thần ở Biên Hòa. Tờ 40: chia cho ở
từng nơi, bọn dân theo đạo Thiên Chúa và theo giặc – gọi là tù dân. Tờ 41:
thành Biên Hòa bị hãm. Tờ 45: thành Vĩnh Long bị hãm. Tờ 47: gởi sứ thần bàn
việc hòa giải. Tờ 48b: cắt cho Pháp ba tỉnh: Gia Định, Định Tường, Biên Hòa và
hòa ước 12 khoản – cùng Pháp và Y-pha-nho ngày 09/5 năm Nhâm Tuất (1862). Tờ
50: tha bọn tù dân. Tờ 51: tạm mở Sứ quán Pháp ở Huế. Tờ 82: quan Kinh lược
Nguyễn Chánh đóng ở đất Sơn Tây. Tờ 83: triệt bỏ đoàn quân Lưu Vĩnh Phúc. Sung
Nguyễn Hữu Độ làm Tĩnh biên (phó sứ). Tờ 86: quân Mãn Thanh đóng nhiều ở nội
địa - giáp biên giới Trung Quốc và Việt Nam. Tờ 86: Trương Quang Đản dâng sớ
xin đánh Pháp. Tờ 88: thư của Lý Hồng Chương gởi tới; thành Nam Định bị hãm. Tờ
94: quan quân nhà Thanh đóng nhiều ở Bắc Kỳ. Tờ 93: chiến thắng ở Cầu Giấy. Tờ
99: triệt quân thứ Bắc Kỳ về; quân Pháp kéo lại đánh Sơn Tây. Tờ 102: tướng
Mi-lô Pháp đánh thua quân Thanh ở tỉnh Bắc. Tờ 103: quân Pháp đóng ở Tuyên
Quang. Tờ 104: hòa ước 19 khoản, ngày 06/6/1874. Tờ 105: quân Thanh đánh thua
quân Pháp ở Lạng Sơn. Tờ 110: Kinh thành Huế bị mất. Tôn Thất Thuyết đem vua
Hàm Nghi chạy ra phía bắc. Tờ 114: Nguyễn Hữu Độ, Phan Đình Bình từ Bắc Kỳ về
kinh bàn với quân Pháp đón lập Kiên Giang quận công lên làm vua (Đồng Khánh).
Tờ 122: Toàn quyền Pháp nghĩ ba điều lệ đem thi hành. Tờ 124: vua Đồng Khánh về
kinh. Tờ 125b: sai Nguyễn Hữu Độ ra Bắc Kỳ bàn bạc mọi việc. Tờ 130b: đặt
trường học chữ Pháp tiếng Pháp. Tờ 131b: bàn thêm bốn điều về trộm cướp. Tờ 135b:
duyệt binh trước cửa Ngọ Môn.
“Sách Dương sự thủy mạt mới xem qua phần nhiều tưởng
là trích lược ở bộ Đại Nam thực lục. Nhưng xem
kỹ sẽ thấy sách này có ghi chép một số việc lặt vặt không có trong Thực lục.
Vậy ta có thể coi sách này là một bộ dã sử về thời quân Pháp mới xâm lược nước
ta, tiếc rằng không biết rõ tên người biên soạn.”
Trên trang mạng Văn hóa Nghệ An, thứ bảy, ngày 25 tháng 12
năm 2010 có bài “Văn bản DƯƠNG SỰ THỦY MẠT và quan hệ của chúng
với ĐẠI NAM THỰC LỤC” của Vu
Hướng Đông. Bài viết cho biết tác giả đã: “sang nghiên cứu ở Hà Nội mấy tháng,
tôi lại có điều kiện tiến hành khảo sát văn bản của bộ sử liệu này và quan hệ
của chúng với Đại Nam thực lục, nay
xin nêu những kết quả đã khảo sát, mong được sự chỉ giáo của các nhà nghiên cứu.
“1. Văn bản, niên đại và tác giả
của Dương sự thủy mạt: Thủy mạt ra
đời khoảng cuối thế kỷ XIX về sau, có lẽ chỉ được lưu truyền qua bản chép tay
và các bản sao, chưa được khắc in, 3 bản đã biết đều không ghi họ tên tác giả,
có thể do nguyên bản chép tay đã thiếu các phần tựa, bạt... nên rất khó căn cứ
vào bản sao chép hiện còn để đoán định tác giả và niên đại cụ thể của
sách. Thủy mạt chủ
yếu ghi chép theo lối biên niên (…). Việc ghi chép sự kiện trong khoảng thời
gian hơn 40 năm ấy, có khi lấy, có khi bỏ, có sự kiện tường tận, có sự kiện sơ
lược. Từ niên đại kết thúc ghi chép sự kiện, chúng ta có thể sơ bộ biết được
thời gian sách soạn xong là sau năm 1888.
“Chúng tôi đã thấy có 3 bản Thủy mạt, tình hình cụ thể như sau:
“Một là “Bản Hoàng Hải” của Viện Nghiên cứu Hán
Nôm, ký hiệu VHv.2373, sao chép trên giấy trắng thông thường, gồm 156 tờ, vốn
không ghi số tờ. Mỗi tờ 2 mặt, mỗi mặt 8 dòng, mỗi dòng từ 18 đến 20 chữ, dòng
ghép rất nhiều, chữ viết theo lối thảo (…). Từ tình hình thời gian, họ tên
người kiểm duyệt ghi ở cuối quyển đều dùng bút mực và kiểu chữ thống nhất với
chính văn, nhưng nhận xét ở lề sách và sửa chữa ở chính văn lại dùng bút son,
kiểu chữ cũng khác, thì thấy, nhận xét ở lề sách, sửa chữ chính văn và chấm câu
có thể là do người khác làm. Thứ hai, từ dấu tàng thư đóng trên trang tên sách
có thể biết, sau khi sao chép vào những năm 60 của thế kỷ XX, bản sao này sớm
nhất có thể do Thư viện Khoa học Xã hội thu giữ, sau chuyển đến Viện Nghiên cứu
Hán Nôm lưu giữ, vẫn còn mấy dấu niên đại kiểm duyệt của đơn vị tàng thư, sớm
nhất là năm 1967. Những dấu tàng thư và dấu niên đại này đã cung cấp thông tin
cho người đọc. Sau khi khảo sát quá trình lưu truyền và thời gian của bản sao
sách này, chúng tôi cho rằng, bản của Viện Nghiên cứu Hán Nôm có thể chính là
nguyên bản bản Hoàng Hải mà Trần Văn Giáp đã thấy.
“Hai là bản của Phòng Tư liệu Khoa Sử, Trường
Đại học Tổng hợp Hà Nội cũ, (nay là Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn). Bản này ký hiệu là Hv.246, sao chép trên giấy kẻ ô dọc để in ván gỗ, lề
giữa có 4 chữ “Long Cương tàng bản”, trong lề giữa còn ghi niên hiệu các sự
kiện xảy ra ở trang đó, như “Thiệu Trị năm thứ 7”, “Tự Đức năm thứ 9”...
Bản này viết theo lối hành thảo, chữ viết khỏe đẹp, thanh thoát, nhưng nét chữ
không thống nhất, hình như không phải do một người viết. Toàn sách có 146 tờ,
292 mặt, mỗi mặt 8 dòng, mỗi dòng từ 21 đến 25 chữ. Những điều ước, văn thư
thương lượng giữa Việt Nam và Pháp, một số tên người, tên đất và chú thích chép
ở bản này đều ghi bằng chữ nhỏ, xen vào giữa dòng. Trong sách có không ít chữ
thông tục và chữ kiêng húy, như để kiêng húy Thánh Tổ hoàng hậu triều Nguyễn họ
Hồ, dùng chữ “hư” thay chữ “thực”, kiêng húy của Nguyễn Phúc Thì (vua Tự Đức),
dùng chữ “thìn” thay chữ “thì"”... Từ 4 chữ “Long Cương tàng bản” có thể
biết, bản này do thư viện Long Cương, vốn là tàng thư của Cao Xuân Dục sao
chép. Cao Xuân Dục là một học giả nổi tiếng, một vị quan ở hậu kỳ triều Nguyễn,
có tàng thư rất phong phú. Để giáo dục thế hệ sau, ông đã thuê người sao chép
số lượng lớn sách vở, có cống hiến không nhỏ trong việc bảo tồn văn hiến cổ
tịch Việt Nam. Bản này chắc là sách do ông thuê người sao chép. Bản này đã được
học giả Trần Lê Hữu dịch sang tiếng Việt từ rất sớm (dịch xong ngày 20 tháng 10
năm 1964), hiện bản dịch cũng lưu giữ ở Phòng Tư liệu Khoa Sử của trường này,
ký hiệu Vt.30. Nhưng đáng tiếc chỉ còn tập 2. Nếu còn tập 1, chúng ta có thể
biết được nhiều thông tin và nghiên cứu tác phẩm này của ông và đồng nghiệp.
“Thứ ba là bản sao của Viện Sử học, thuộc Trung
tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, ký hiệu Hv.418/1-2, sao chép bằng bút
sắt, chữ viết khá đều đặn, rất dễ đọc. Bản sao này gồm 152 tờ, chú thích ngắn
gọn, bằng chữ nhỏ viết xen vào giữa dòng, còn những văn thương thuyết khá dài
giữa hai bên Việt-Pháp thì chép vào trong dấu ngoặc đơn, cuối sách chú rõ:
“Chép theo nguyên bản của Thư viện Khoa học xã hội, ký hiệu VHv.2373”. “Chép
xong tháng 5 năm 1965”, không thấy có thông tin họ tên người sao chép. Như vậy
bản sao này là chép theo bản của Thư viện Khoa học xã hội, cũng tức là bản
Hoàng Hải, nhưng bản này lại không có những nhận xét bên lề như bản Hoàng Hải.
Điều này cũng có thể, từ một mặt khác, chứng minh cho suy đoán của chúng tôi về
nhận xét và lời chú của bản Hoàng Hải có lẽ do người khác thêm vào. Đương nhiên,
cũng không thể hoàn toàn loại trừ khả năng người sao chép đã lược bỏ lời nhận
xét ở lề sách, xét từ thời gian sao chép, đây là một bản sao xuất hiện muộn
nhất.
2. Về những ghi chép ở quyển đầu
của bản Đại học Tổng hợp Hà Nội: Trong nghiên cứu văn hiến cổ tịch, những tự,
bạt, đề từ ở quyển đầu và những lời bình, lời phê, chú thích ở quyển giữa đều
có ý nghĩa quan trọng đối với việc tìm hiểu biên soạn sách cổ và lưu truyền bản
sao. Trong mấy văn bản của Thủy
mạt, ở quyển đầu của bản Đại học Tổng hợp Hà Nội cũ có 2 trang
ghi chép mà ở hai bản kia đều không có. Những ghi chép này mang tính chất gì,
có quan hệ gì với chính văn, có giá trị đối với việc tìm hiểu các bản sao
của Thủy mạt hay
không? Rất đáng được chú ý.”
Sau đó, Vu Hướng Đông chỉ ra những
sai khác về tên người, tên đất, thời gian và ghi chép một vài sự kiện
giữa Thực lục và Thủy mạt:
1. Khác nhau về tên người như:
tháng 2 năm Tự Đức thứ 16 (1863), Thủy
mạt ghi: “Sứ hai nước Phú-lãng-sa, Y-pha-nho là bọn Phô-na,
Pha-lăng-y-ca (Pháp soái kiêm sứ) đến kinh sư”. Thực lục cũng ghi chép như vậy,
nhưng, “Pha-lăng-y-ca” lại viết là “Pha-lăng-ca”, “Pháp soái kiêm sứ” viết là
“giải sư kiêm sứ”. Lại như trận đánh ở tỉnh thành Sơn Tây tháng 10 năm Tự Đức
thứ 36 (1883), Thủy mạt ghi:
“Đề đốc Tam Tuyên Lưu Vĩnh Phúc và Thống lĩnh quân Thanh Đường Cảnh Tùng đôn
đốc Lưu Vĩnh Thanh ra thành nghênh chiến”. Thực lục ghi là “Trương Vĩnh Thanh”.
Có 5 chỗ khác nhau như vậy.
2. Khác nhau về tên đất như:
tháng 4, năm Tự Đức thứ 14 (1861), Thủy
mạt ghi: “Nay Gia Định, Định Tường đường sá đã tiện, Vĩnh Long,
Biên Hòa địa thế trơ trọi cách trở”. “Biên Hòa”, Thực lục ghi là “An, Hòa”, tức An
Giang, Hà Tiên. Lại như tháng 2 năm Tự Đức thứ 15 (1862), Thủy mạt ghi: “Văn Uyển biết (chúng)
định gây mầm loạn, liền nghiêm lệnh cho quan Lãnh binh Tôn Thất, quyền sung
Lãnh binh Nguyễn Đài, Lê Đình Cửu (đều phái đi trú đồn Vĩnh Long)...”, “đồn
Vĩnh Long” Thực lục ghi
là “đồn Vĩnh Tùng”. Có 9 chỗ khác nhau như vậy, có một số chỗ có thể nhìn ra là
do Thủy mạt viết
sai.
3. Khác nhau về thời gian chép
việc: Mục tháng 5 năm Tự Đức thứ 17 (1864), Thủy mạt ghi: “Sứ thần toàn quyền
Phan Thanh Giản trao đổi sắc văn với viên soái Pháp là Ha-ba-li. Sứ Pháp đã trở
về, bọn Phan Thanh Khoa dâng sớ xin chịu tội”. Cùng nội dung này, Thực lục ghi vào tháng 6 cùng năm,
tường thuật khá tỉ mỉ. Có 6 chỗ khác nhau về thời gian như vậy. Trong đó có 3
chỗ thời gian ở Thủy mạt sớm
hơnThực lục 1
năm, tháng cũng không giống nhau; một chỗ số ngày khác nhau, đó là sự kiện
tháng 10 năm Tự Đức thứ 36 (1883), quân Pháp tấn công cửa Bắc thành Hà Nội,
quân giữ thành cầm cự với quân Pháp, Thủy mạt ghi là “cầm cự nhau 4, 5 ngày”, Thực lục ghi là “cầm cự nhau 17
ngày”.
4. Khác nhau về tên quan chức:
Năm Tự Đức thứ 29 (1876), Thủy
mạt ghi: “Cho viên soái Pháp là Lê-na đặt dinh thự ở bờ nam Sông
Hương của Kinh thành”. Thực lục ghi:
“Cho Khâm sứ Pháp là Lê na...”. Năm Tự Đức thứ 36 (1883), Thủy mạt ghi: “Tá Viêm cùng bọn Tán
tương Lê Tư Thứ đóng đồn ở ngoài cửa nam La thành”. “Tán tương” Thực lục chép là “Tham tán”. Chỉ có 2
trường hợp như thế này.
5. Khác nhau về số người chết và
bị thương khi chiến đấu, về số lượng binh dõng, dinh quân, thuyền chiến như:
tháng 10 năm Tự Đức thứ 11 (1858), Thủy
mạt ghi: “Vua thấy trận này quân ta chết và bị thương ngang với
giặc, nên miễn”. Thực lục ghi:
“Vua thấy quân ta bị thương (10 người), bị chết (22 người, 2 cỗ voi), nhưng
quân Tây cũng chết nhiều (45 tên), nên miễn.” Lại như tháng 3, năm Hàm Nghi
nguyên niên (1885), Thủy mạt ghi:
“Bấy giờ soái phủ Pháp bàn trích 6 nghìn lính của tỉnh này, trao cho súng diễn
tập để lúc cần sai đi tiễu trừ”. Thực
lục thì chép là “bàn trích 1 nghìn quân của tỉnh này”. Những con
số khác nhau như vậy có 8 chỗ.
6. Khác nhau trong ghi chép sự
kiện như: tháng 4 năm Tự Đức thứ 12 (1859), Thủy mạt ghi: “Gia Định thì số thuyền
hiện đậu ít, mà ở xa ngoài biển, tiến sát thực khó”. Thực lục ghi: “Gia Định thì số thuyền
hiện đậu nhiều, mà ở gần mặt biển, tiến sát rất khó”. Chỗ này ghi chép ở hai
sách khác nhau rất lớn. Có những chỗ chỉ là sai khác nhỏ, như tháng 6, năm Tự
Đức thứ 36 (1883), Thủy mạt ghi:
“Tháng 6 (ngày 16 tháng này Hoàng đế nước Anh băng), thuyền Pháp (1 to, 1 nhỏ)
đi qua sông Hát Giang đến sông Nhật Chiếu”. Thực lục ghi: “Ngày 6, thuyền Pháp (1
to, 1 nhỏ) đi qua sông Hát Giang đến sông Nhật Chiếu”. Sai khác nhỏ của một vài
sự kiện có khoảng hơn 10 chỗ.
Qua so sánh trên đây, có thể
thấy, Thủy mạt là
trích lục chuyên đề về nội dung “Dương sự” ghi chép trong Thực lục, nhưng hai sách không hoàn
toàn giống nhau, chỗ khác nhau, có thể là do trích lục sai, có thể là do người
trích lục gia công giản hóa, có thể là do có căn cứ khác. Xét về mặt nội dung
sử liệu chuyên đề về “Dương sự”, Thủy mạt vẫn có giá trị đáng được coi trọng.”
Ngoài ra, Vu Hướng Đông còn dẫn
hai tài liệu nghiên cứu về Dương sự
thủy mạt ở Trung Quốc như: Đới Khả Lai, Vu Hướng Đông: “Về Dương sự thủy mạt, sử liệu chuyên đề Pháp xâm
lược Việt Nam” (Tập san Đông
Nam Á tung hoành, số 1, năm 1998, phát hành tại Nam Ninh), và Lư
Tiểu Lợi: “Nghiên cứu bước đầu về Dương
sự thủy mạt” - Luận văn thạc sĩ tại Đại học Trịnh Châu, Hà Nam, Trung Quốc,
năm 1995.
Ghi nhận những
nghiên cứu bước đầu của cố học giả Trần Văn Giáp và những nghiên cứu mới của
một người bạn Trung Quốc, bản dịch trọn vẹn Dương sự thủy mạt của nhóm dịch giả: Đông
Hào-Trương Sỹ Hùng-Hàn Khánh, theo nguyên bản ký hiệu VHv.2373 đang lưu giữ tại
Viện Nghiên cứu Hán Nôm là một sự cố gắng. Dĩ nhiên, nhóm dịch giả có tham khảo
phần nửa bản dịch tư liệu của cụ Trần Lê Hữu như Vu Hướng Đông đã đề cập. Mặt
khác, khi dịch theo bản VHv.2373 thì cấu tạo nội dung và hình thức văn tựDương sự thủy mạt khác nhau nhiều điểm, kể cả
nội dung và dạng tự so với hai bản của Viện Sử học và Khoa Sử, Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội. Giải đáp một nghi vấn về người kiểm duyệt
bản Dương sự thủy mạt này
có ghi: “người kiểm duyệt: Nguyễn Khắc Xương và Nguyễn Tấn Minh. Việc kiểm
duyệt làm xong ngày 08 tháng 3 năm 1962”. Tháng 9 năm 2016, nhóm dịch giả đã cử
người đến thành phố Việt Trì, mang theo cả bản chữ Hán photo, đề nghị nhà
nghiên cứu Nguyễn Khắc Xương xem giúp; ông khẳng định: “năm ấy tôi đã 40 tuổi,
nhưng đây là người khác trùng tên.” Nguyễn Khắc Xương sinh năm 1922 tại Hà Nội,
trưởng nam của thi sĩ Tản Đà, nguyên quán Khê Thượng - Ba Vì - Hà Nội. Ông có
nhiều tác phẩm nghiên cứu văn hóa dân gian như: Truyền thuyết Hùng Vương, Nữ tướng Hai Bà Trưng, Hát Xoan Phú Thọ…, và đã
được tặng giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2012.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét