Tác giả: Chin-Hao Huang (Giám đốc Viện Nghiên
cứu Quan hệ Quốc tế ở Đại học Yale-NUS.) Contemporary Southeast Asia
Vol. 39, No. 3 (2017), pp. 587-89.
China, the United States and the Future
of Southeast Asia.
David B. H. Denoon chủ biên. New York: New York University Press, 2017. Bìa
mềm: 464 trang.
Tập sách mới nhất do
David B.H. Denoon chủ biên tập hợp bài viết từ các chuyên gia nổi tiếng về an
ninh và quan hệ quốc tế ở Đông Nam Á. Điểm nhấn chung của tập sách này là: khi
Đông Nam Á đang trở thành một trọng tâm mới trong gia tăng đối đầu giữa Hoa Kỳ
và Trung Quốc, các nước Đông Nam Á sẽ có ảnh hưởng như thế nào tới vận động
quyền lực đang thay đổi nhanh chóng ở khu vực?
Mức độ phát triển kinh tế và chính trị
đa dạng cùng ưu tiên đối ngoại khác nhau của mười nước ASEAN khiến việc tìm
được một chính sách chung của khu vực này đối với Trung Quốc và Hoa Kỳ trở nên
khó khăn. Ở phần giới thiệu, Denoon thừa nhận rằng “mẫu hình hành vi của các
thành viên ASEAN là khá đa dạng” (trang 6). Tuy nhiên, vẫn có một vài xu hướng
chung.
Ví dụ, vị trí địa lí gần
nhau buộc các quốc gia trong khu vực phải có quan hệ giao thương và kinh tế gần
gũi với Trung Quốc. Chẳng hạn, Thái Lan ngày càng ngả về Trung Quốc, một phần
do số lượng lớn các thương nhân người gốc Hoa vốn nhận thấy lợi ích trong việc
duy trì quan hệ gần gũi với Trung Quốc. Ở Chương 8, Catharin Dalpino cho thấy
Lào và Campuchia cũng được lợi từ sự hào phóng của Trung Quốc trong những năm
gần đây, đặc biệt từ nguồn vốn hỗ trợ phát triển, cho vay ưu đãi và đầu tư ngày
càng gia tăng vào các dự án cơ sở hạ tầng lớn từ đập thủy điện đến đường cao
tốc và đường sắt. Dalpino kết luận trong chương của mình là ảnh hưởng của quân
đội lên chính trị ở Myanmar có nghĩa là quan hệ kinh tế sẽ tiếp tục có vai trò
then chốt trong quan hệ Trung Quốc-Myanmar. Tương tự, các nước giáp biển ở Đông
Nam Á cũng muốn có quan hệ kinh tế gần gũi với Trung Quốc hơn. Vikram Nehru đã
miêu tả rất kĩ vấn đề này ở chương mở đầu. Các nước có kinh tế phát triển cao
như Singapore, Malaysia, Brunei và Indonesia tiếp tục phát triển và dựa vào
Trung Quốc trong vai trò một thị trường xuất khẩu hấp dẫn.
Cùng lúc, các tác giả
viết rằng mặc dù đang có sự hợp tác ngày càng sâu rộng về mặt kinh tế, xu thế
đối đầu và phòng bị nước đôi (hedging) cũng đang ngày càng phổ biến trong quan
hệ an ninh Trung Quốc-Đông Nam Á. Ví dụ, Việt Nam có quan điểm an ninh phức tạp
đối với Trung Quốc. Như Trần Trương Thủy đã chỉ ra ở Chương 6, bất chấp sự tương đồng về ý thức hệ với Trung Quốc, Việt
Nam rất cảnh giác với ảnh hưởng quá mức của Trung Quốc, đặc biệt từ sau vụ giàn
khoan năm 2014 ở biển Đông. Sự chia rẽ phe nhóm trong giới lãnh đạo Việt Nam
cũng cho thấy Hà Nội phải cân bằng giữa phái dân tộc chủ nghĩa chống Bắc Kinh
và phái thân Bắc Kinh. Tương tự, quan hệ an ninh của Philippines cũng đã gặp
nhiều phức tạp trong những năm gần đây do hoạt động của Trung Quốc ở Biển Đông,
đặc biệt là sự kiện Bãi cạn Scarborough năm 2012. Những quan chức và chính trị
gia muốn tăng cường hợp tác ngoại giao và an ninh với Trung Quốc buộc phải xem
lại quan điểm của mình khi có sự gia tăng hiện diện và bành trướng của Trung
Quốc trong vấn đề tranh chấp biển đảo. Phán quyết có lợi cho Philippines vào
tháng 7 năm 2016 của Tòa Trọng tài thúc đẩy cảm giác nghi ngờ Trung Quốc trong
dân chúng Philippines. Tuy nhiên, các ưu tiên cấp cách về kinh tế và an ninh
trong nước đã áp đảo các quan ngại về ngoại giao, dẫn tới một bộ máy lãnh đạo
mới thân Bắc Kinh hơn vào năm 2016. Từ đó tới nay, bộ máy lãnh đạo này đã quan
tâm tới việc cải thiện quan hệ với Trung Quốc. Sự quan ngại về sức mạnh cứng
của Trung Quốc tiếp tục chi phối bối cảnh an ninh tại Singapore, Malaysia, và
Indonesia. Evan Laksmana, Heng Yee Kuang và Zakaria Ahmad có phân tích cân bằng
trong Chương 4, 5 , và 7, và đều chỉ ra rằng các nước Đông Nam Á đều coi sự xác
quyết gia tăng của Trung Quốc như là một thách thức an ninh nguy hiểm và ngày
càng lớn đối với ổn định khu vực.
Đây cũng là nơi mà Hoa
Kỳ có vai trò trong các toan tính của khu vực. Nổi bật nhất là mối quan hệ an
ninh mới hình thành và đang phát triển giữa Hoa Kỳ và các nước Indonesia,
Việt Nam và Myanmar, như bài viết của Marvin Ott và Michael McDevitt trong tập
sách cho thấy. Các nước Đông Nam Á này đều từng có quan hệ phức tạp với Hoa Kỳ,
nhưng họ đã quyết định để lại quá khứ sau lưng để hướng về mục tiêu thực dụng
hơn với Washington: mở rộng và làm sâu sắc mối quan hệ an ninh với một cường quốc
bên ngoài khác để đảm bảo sự sống còn và vai trò của các nước này trong khu
vực. Điều này cũng phản chiếu chiến lược lâu nay của các nước nhỏ như Singapore
và Brunei. Trong một khu vực mà một số cường quốc bên ngoài đang tìm cách tranh
giành ảnh hưởng, Đông Nam Á đang ở vị trí đặc biệt có thể mở rộng quan hệ an
ninh với nhiều đối tác. Thay vì đối đầu trực tiếp với ảnh hưởng gia tăng và mối
đe dọa an ninh từ Trung Quốc, gần như tất cả các nước Đông Nam Á đều đang đa
dạng hóa các mối quan hệ an ninh của mình. Nói cách khác, các nước này đang
“thuê” Hoa Kỳ, Nhật Bản, Ấn Độ và cả Nga đảm nhiệm vai trò đối trọng với Trung
Quốc.
Những phân tích trong
tập sách này khẳng định tầm quan trọng của lựa chọn “omni-enmeshment” (can dự
đa hướng) như là chính sách chính của các nước trong khu vực trong việc can dự
với các cường quốc bên ngoài. Điều này khẳng định ý tưởng rằng mọi thứ càng
động thì càng tĩnh. Như Chu Shulong đã quan sát trong chương của mình, sự trỗi
dậy của Trung Quốc diễn ra từ từ trong nhiều thập niên thay vì diễn ra trong
vòng một đêm hoặc bất ngờ. Nó cho phép các lãnh đạo Đông Nam Á có thời gian để
chuẩn bị và đối mặt với sự dịch chuyển quyền lực không thể tránh khỏi này bằng
những cách tinh tế, một điều được thể hiện xuyên suốt tập sách tuyệt vời với nhiều
bằng chứng thực nghiệm và nghiên cứu sâu về các quốc gia này.
Tập sách này có đóng góp
gì cho việc xây dựng lí thuyết? Công luận, bối cảnh lịch sử, phát triển kinh
tế, phe phái trong đảng, sự chuyển tiếp lãnh đạo và bản chất của chế độ chính
trị là vài yếu tố trong nước có vai trò quyết định với chính sách đối ngoại của
các nước Đông Nam Á. Có lẽ chúng ta không thể đo được mức độ ảnh hưởng của từng
yếu tố này nếu chỉ dựa vào các phân tích trong sách, khiến cho việc suy đoán
các yếu tố này có ảnh hưởng vào thời điểm nào trở nên khó khăn. Nhưng những
luận điểm biến thiên theo lịch sử và văn hóa trong tập sách là một điểm quan
trọng nhưng chưa được nghiên cứu đầy đủ: nó giải thích được những khác biệt
trong lựa chọn về đối ngoại của các lãnh đạo Đông Nam Á khi ứng xử với các
cường quốc bên ngoài. Không có chính sách nào có thể phù hợp được với mọi quốc
gia, cũng như không thể có một chiến lược đơn giản, hoặc là cân bằng quyền lực
hoặc là phù thịnh, cho khu vực. Chỉ riêng điểm này cũng đã là một đóng góp quan
trọng cho lĩnh vực nghiên cứu này, cũng như cho những ai muốn thực sự hiểu được
chính trị và các ưu tiên của Đông Nam Á.
Theo QHQT. Biên dịch: Đinh Nho Minh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét