Mọi Kontum của Nguyễn Kỉnh
Chi và Nguyễn Đổng Chi in năm 1937 tại Huế là một công trình nghiên cứu dân tộc
học đầu tiên của giới học thuật người Việt, ghi nhận một thành tựu xuất sắc
trong phương pháp tiếp cận, cách khai thác tư liệu điền dã khá sắc sảo.
Nhân dịp kỷ niệm 110 năm năm sinh của Nguyễn Kinh Chi (1899 - 2019) và 35
năm ngày mất của Nguyễn Đổng Chi (1915
– 1984)TMT trân trọng đăng lại bài giới thiệu cuốn sách của nhà văn lão thành
Nguyên Ngọc, người đã từng sống và viết rất thành công về mảnh đất và con người
Tây Nguyên.
Sách Mọi Kontum xuất bản năm 1937
Năm 2008 tôi có tham gia việc xuất bản sách
Rừng người thượng của Henri Maitre,
viết năm 1912, được coi là công trình khảo sát Tây Nguyên công phu và toàn diện
nhất cho đến tận ngày nay. Sách do Viện Viễn Đông bác cổ ở Hà Nội phối hợp với Nhà
xuất bản Tri thức ấn hành. Người dịch là Lưu Đình Tuân, tôi nhận phần hiệu đính
và viết “Phàm lệ”. Có một Ban khoa học được thành lập để xử lý những vấn đề khoa
học liên quan đến việc dịch và in sách. Chúng tôi gặp ngay một vấn đề: trong
nguyên bản tiếng Pháp, sách có tên là Les
jungles moi, có thể dịch là Rú mọi
hay Rừng mọi. Ban khoa học cân nhắc,
thấy để từ mọi ngay trên bìa sách sẽ
dễ gây sốc, nên quyết định bản dịch ra tiếng Việt sẽ có tên trên bìa là Rừng người thượng; tuy nhiên bên trong
sách thì giữ nguyên từ mọi đúng như
nguyên bản, và sẽ nói rõ lý do trong “Phàm lệ”. Được giao giải thích điều này
trong “Phàm lệ”, tôi đã viết rằng theo tôi từ mọi vốn ban đầu không hề có ý nghĩa xấu. Nó bắt nguồn từ từ tơmoi trong tiếng Ba-na (Bahnar), có nghĩa là khách. Tôi đã biết từ này
khi sống ở vùng Ba-na. Cẩn thận, tôi tìm tra thêm Từ điển Bahnar - Pháp của Guilleminet; theo Guilleminet tơmoi được dịch sang tiếng Pháp có các
nghĩa sau: hôte (khách), invité d’un autre village (khách được mời từ một làng
khác đến), étranger (lạ, người lạ), ennemi (thù, kẻ thù), pays étranger (nước
khác, ngoại quốc). Những người phương Tây đầu tiên lên Tây Nguyên là các Linh mục
Thiên chúa giáo; khi bị Triều đình nhà Nguyễn truy đuổi họ tìm đường lên vùng
cao nguyên miền Tây để tránh khủng bố, và truyền đạo vào người bản địa nhằm xây
dựng cơ sở lâu dài. Sau nhiều nỗ lực thất bại, họ đến được vùng người Ba-na ở Kon Tum, lập xứ đạo Kon Tum, là xứ đạo Thiên chúa
giáo đầu tiên tại đây, đến nay vẫn là xứ đạo Thiên chúa lớn nhất và quan trọng
nhất ở Tây Nguyên. Bấy giờ những người Ba-na Kon Tum đến gặp các nhà truyền
giáo thường xưng là tơmoi, là khách.
Các nhà truyền giáo lại hiểu rằng đấy là họ tự giới thiệu tên tộc người của họ.
Về sau dần dần tiền tố tơ bị rớt đi, còn
lại moi, moi nghiễm nhiên trở thành
tên gọi người bản địa. Người Pháp gọi là moi,
người Việt gọi là mọi, hoàn toàn là một
danh xưng. Mọi chỉ mang ý nghĩa xấu
khi quan hệ giữa người Việt với người bản địa Tây Nguyên nhuốm màu sắc khinh miệt,
và ghép với rợ là từ Hán Việt thành mọi rợ… Khi Rừng người thượng ra đời, đọc “Phàm lệ”, một số nhà dân tộc học ở
Hà Nội bảo rằng tôi là người duy nhất giải thích nguồn gốc của từ mọi như vậy. Họ có một giả thuyết khác,
theo họ mọi bắt nguồn từ từ mol trong tiếng Mường có nghĩa là người.
Tôi không phải là nhà dân tộc học hay nhà ngôn ngữ học, tôi chỉ xin nêu câu hỏi:
nếu mọi xuất phát từ từ mol của người Mường, một tộc người sống ở
phía Bắc, thì tại sao các tộc người thiểu số miền núi như Tày, Nùng, Dao, Thái,
Lô Lô, Sán Dìu, v.v. cùng sống ở phía Bắc, gần người Mường hơn nhiều, ít nhất về
địa lý, không bao giờ được gọi là mọi,
mà chỉ có các tộc người bản địa Tây Nguyên xa tít ở phía Nam mới mang tên mọi?
Tôi đọc Người
Ba-na ở Kon Tum từ mấy chục năm trước. Như ta đều biết, khi đó nó có tên
nguyên gốc là Mọi Kontum. Khi được Viện
Viễn Đông bác cổ ở Hà Nội phối hợp với Nhà xuất bản Tri thức tái bản năm 2011,
nó cũng có một Ban khoa học, và cái ban ấy cũng gặp vấn đề đúng như ở Rừng người thượng sáu năm trước. Mọi Kontum được đổi tên thành Người Ba-na ở Kon Tum. Lần này tôi cũng
được tham gia Ban khoa học nhưng không phải viết giải thích gì trong “Phàm lệ”
nữa, vì đã có hai người đầy đủ uy tín về thực tế và khoa học hơn tôi rất nhiều
trả lời, từ năm 1937, nghĩa là trước đấy đến những… 74 năm. Đó là Nguyễn Kinh
Chi và Nguyễn Đổng Chi, hai nhà dân tộc học “tài tử” mà cực kỳ tài năng. Ngay
trong tác phẩm Mọi Kontum của mình, đặc
sắc đến mức ngày nay đọc lại không khỏi khiến chúng ta kinh ngạc, các ông đã
bày tỏ ý kiến về chuyện này. Các ông viết như sau ở một chú thích đầu chương Nhân dân: “Chữ ‘Mọi’ ở đâu ra? Xét trong tiếng nói của người Ba-na có tiếng
‘tơmoi’ nghĩa là khách. Người Ba-na dùng tiếng ấy để chỉ những người làng khác
hoặc bộ lạc khác đến làng hoặc bộ lạc mình. Ví dụ người Gia-rai hoặc Xơ-đăng đến
xứ Ba-na thì người Ba-na kêu là tơmoi Gia-rai,
tơmoi Xơ-đăng nghĩa là khách Gia-rai, khách Xơ-đăng. Người Annam đến xứ họ, họ
cũng kêu là tơmoi. Vậy theo thiển kiến chúng tôi thời tiếng mọi có lẽ ở trong
tiếng tơmoi của người Ba-na mà ra, chứ không phải một tiếng mà người Annam đặt
ra để chế nhạo giống người ở trên rừng núi, như nhiều người nói. Có lẽ khi người
Annam mới giao thiệp với người Ba-na, thường nghe những thứ tiếng tơmoi Gia-rai,
tơmoi Xơ-đăng, v.v…, bèn bắt chước mà nói theo. Lần lần lại bỏ tiếng ‘tơ’ mà chỉ
giữ lấy tiếng ‘moi’ (vì tiếng mình là tiếng độc âm). Sau lâu ngày tiếng ‘moi’
hóa ra một tiếng chỉ tên chung cho cả dân thổ trước ở trên rừng về phía Nam,
cũng như những tiếng ‘Mán, Mường’ ở ngoài Bắc. Hai tiếng này cũng là tiếng của
thổ nhơn mà ta dùng theo. Còn như ngày nay người Annam dùng những tiếng: Mọi,
Mán, Mường để chỉ người hoặc việc có tính chất khờ dại thì không khác chi người
Pháp dùng tiếng ‘chinoiserie’ để chỉ những việc kỳ quặc khó hiểu”([1]).
Mấy mươi năm trước đọc Mọi Kontum, tôi đã không chú ý đến chú
thích này, chỉ rất thích thú với những khảo sát chính xác, tỉ mỉ và mô tả hết sức
sống động của các tác giả về người Ba Na, xã hội và đời sống của họ. Ngày nay đọc lại Người Ba-na ở Kon Tum, gặp chú thích này, tôi mừng thấy hai tác giả
từng trải có ý kiến gần gũi mình về gốc tích từ mọi. Đúng ra sau khi đã tìm thấy gốc của mọi từ tơmoi, cách giải
thích tiếp của hai ông có khác tôi: tôi cho rằng các Giáo sĩ phương Tây là những
người đầu tiên nhầm từ tơmoi ra moi, rồi mọi. Hai ông thì cho rằng chính những người Việt (bấy giờ là những
thương lái đi buôn bán ở miền núi) nghe người Ba-na gọi người Gia-rai (Djarai) ,
Xơ-đăng (Sedang) … là tơmoi, từ đó mà
dẫn đến từ mọi… Nay nghĩ lại tôi thấy
có lẽ cách giải thích của hai ông đúng hơn. Ở bản đồ Đàng Trong của Alexandre
de Rhodes đã thấy ghi Ke Moi, Kẻ mọi,
trên vùng đất nay là Tây Nguyên. Ta biết A. de Rhodes đến Đàng Trong sớm hơn thời
gian các nhà truyền giáo bị Triều đình Huế khủng bố phải chạy lên vùng Ba-na ở
Kon Tum. Rất có thể Rhodes bấy giờ ngồi ở Hội An, nơi ông làm chữ quốc ngữ, đã
nghe những người thương lái Quảng Nam chuyên đi buôn ở miền thượng nói về vùng
mọi trên các dãy núi phía Tây… Nhận xét của Nguyễn Kinh Chi và Nguyễn Đổng Chi,
chỉ riêng về một chi tiết rất nhỏ là cách gọi tên người Tây Nguyên thôi, cho thấy
các ông đã quan sát, suy nghĩ rất kỹ và có nhận xét rất tinh tế.
Tuy nhiên đối với từ tơmoi, vấn đề không chỉ có thế. Hãy trở lại với cách giải thích từ
này của Guilleminet. Guilleminet dịch nó sang tiếng Pháp là hôte (khách), invité
d’un autre village (khách được mời từ một làng khác đến), tức rất thân thiện. Đồng
thời ông cũng chỉ ra một nghĩa khác, hoàn toàn ngược lại: tơmoi cũng có nghĩa là ennemi, thù, kẻ thù. Có điều gì chung giữa
hai nghĩa trông chừng rất đối nghịch này? Có. Ấy là, và Guilleminet đã cũng chỉ
ra: tơmoi còn có nghĩa, và hẳn đây là
nghĩa gốc, căn bản của nó: étranger, lạ, kẻ lạ, (nước) lạ, (nước) ngoài. Trong
tất cả các nghĩa khác nhau của tơmoi,
khách, thù, đều có chung yếu tố này: lạ, ngoài, không phải mình. Đây chính là một
khái niệm nhân sinh rất quan trọng trong quan hệ giữa những con người hay những
tập đoàn người với nhau: khái niệm lạ, khác. Người lạ, người ngoài, người khác.
Không phải ta, khác ta, ở ngoài ta. Khác ta có thể là bạn, cũng có thể là thù. Không
thể không chợt nghĩ đến câu nói nổi tiếng của Jean Paul Sartre trong vở kịch Huis clos (Xử kín): L’enfer, c’est les
autres, Địa ngục, ấy là kẻ khác. Đối với ta, kẻ khác là địa ngục. Trong một môi
trường xã hội đạo đức nào đó, kẻ khác là hoàn toàn xa lạ, đối kháng, tăm tối, bất
khả tri. Tất nhiên ta hiểu, đây là cái “ta”, cái “tôi” được định hình đến cao độ,
đến tuyệt đối của phương Tây hiện đại… Người
Ba-na, người Tây Nguyên cũng có một từ nhiều nghĩa để biểu hiện quan niệm này. Vậy
quan niệm đó của người Tây Nguyên, người Ba-na là như thế nào? Có lẽ một trong
những chương quan trọng nhất, hay và cũng thú vị nhất của sách Mọi Kontum là chương Hương thôn giao tế, trong đó hai tác giả
nói về Làng Ba-na. Các ông viết, bỗng bằng một giọng khẳng định dứt khoát và hồ
hởi: “Dầu to hay nhỏ, mỗi làng Ba-na là một
tiểu quốc gia hoàn toàn độc lập, không phục tùng dưới quyền thống trị nào khác”([2]).
Chương này, ý tưởng này, khám phá này sẽ là trung tâm của toàn bộ công trình,
những chương sau, cách này cách khác đều gắn với nó, tiếp tục triển khai, cụ thể
hóa ý tưởng trung tâm đó. Các ông khẳng định: trong xã hội Ba-na, không có gì ở
trên làng, làng không phục tùng quyền uy nào cao hơn chính nó. Đối với người Ba-na,
làng là đơn vị xã hội cao nhất. Nhân đây cũng xin nói thêm, trong tất cả các
ngôn ngữ của các tộc người Tây Nguyên, không tìm thấy từ chỉ đơn vị cao hơn
làng (Trong tiếng Gia-rai có từ t’ring
chỉ liên minh một số làng, nhưng đây chỉ là liên minh nhất thời khi có nhu cầu
cùng đối phó với một thách thức nào đó; khi thách thức đó qua rồi thì t’ring cũng tan. T’ring không phải là một đơn vị xã hội, không có lãnh thổ và tổ chức
hành chính tương ứng).
Nếu làng
là đơn vị xã hội cao nhất, bên trên nó không còn có gì khác, vậy bên dưới nó
thì sao? La cà trong các làng Kon Tum và sống cùng họ (sau đây ta sẽ nói về sự
la cà độc đáo này), Nguyễn Kinh Chi và Nguyễn Đổng Chi kể cho chúng ta biết về
cuộc sống thực của người Ba-na. Lời kể nhẹ nhàng, một cái nhìn vui vẻ và thân mật,
một quan sát cứ như thoáng qua, nhưng lại chạm tới một tính chất sâu sắc, đến mức
cơ bản của xã hội này. Các ông viết: “Bất
luận là bà con hay người dưng, người Ba Na đã ở chung một làng thì họ đối đải (đãi)
với nhau thân mật lắm. Lúc vui mừng, khi hoạn nạn đều cùng nhau san sẻ. Lại có
một lối tình cảm liên lạc dân làng với nhau một cách huyền bí. Ngày nay còn thấy
một đôi dấu vết. Ví dụ như trong làng có một đôi trai gái chưa thành vợ thành
chồng mà ăn nằm với nhau thời cả làng đều bị lây jơlâm jơlu (ô uế về tinh thần). Tại sao vậy? Là vì người
Ba Na coi xã hội mình như thân thể người ta. Mỗi cá nhân là một phần tử của
đoàn thể cũng như ngũ quan tứ chi, v.v... là phần tử của thân người. Nếu một phần
tử phạm đều (điều) không tốt thời không khác gì đoàn thể phạm vào đều ấy và các
phần tử khác phải chịu lây ảnh hưởng xấu.
Cũng bởi một lẽ đó mà một người ở đoàn
thể này làm hại một người ở đoàn thể kia thời họ coi như cả đoàn thể trước làm
hại đoàn thể sau. Cái thù riêng của mỗi người trở thành cái thù chung cả bọn và
họ có thể rửa thù vào một phần tử nào bên nghịch cũng được không cần đợi người
có lỗi…”([3]).
Vậy đó, bên dưới làng cũng không có
gì nữa, không còn có gì thấp hơn làng. Không có đơn vị xã hội nào nữa. Cá nhân không
phải là một đơn vị xã hội, nó hòa tan trong làng, tự đồng nhất với làng, đồng
nhất số phận của mình với số phận của làng. Một sự đồng nhất đến tuyệt đối, đến
mức hễ một người đau, một người gây ô uế, thì cũng như một phần tử nào đó của
“ngũ quan tứ chi” đau hay nhiễm độc, cả cơ thể tức cả làng đều đau, đều nhiễm độc.
Đồng nhất đến mức khi một người, tức một phần tử của ngũ quan tứ chi bị xâm phạm
thì tức cả làng bị xâm phạm, và trả thù vào bất cứ phần tử nào của ngũ quan tứ
chi bên kia cũng được rồi! Nguyễn Kinh Chi và Nguyễn Đổng Chi dùng tính từ “huyền
bí”([4]),
nghĩa là nó, tức làng, yếu tố làng, tinh thần và cảm quan về làng, ăn rất sâu đậm,
tận trong căn cốt của xã hội, trong máu thịt của từng con người, đến thành bản
năng, bản chất, vượt qua cả ý thức. Cũng chính nó tạo nên sự gắn kết không gì
lay chuyển được, sức mạnh bền vững và trường tồn của xã hội Ba-na.
Nhận ra một cách sâu sắc và sinh động
tính chất này của xã hội Ba-na, từ đó hai tác giả mô tả và giải thích rất thuyết
phục một loạt hiện tượng xã hội lớn nhỏ ở đây. Chẳng hạn quan niệm của người Ba-na
về luật pháp, về tội phạm và hình phạt. Như đã thấy, Nguyễn Kinh Chi và Nguyễn
Đổng Chi nhắc đến khái niệm jơlâm jơlu, ô uế về mặt tinh thần([5]).
Người Ba-na hết sức coi trọng jơlâm jơlu.
Đối với người Ba-na, tội phạm là gì? Một hành vi bị coi là phạm tội khi nó gây
ra jơlâm jơlu cho cộng đồng làng([6]).
Cụ thể hơn nữa người ta nói rằng nó làm ô uế đất làng, ô uế môi trường sống của
con người, ô uế tự nhiên nơi con người sống, tức là làng, bao gồm nơi cộng đồng
làng cư trú và các loại rừng núi họp thành không gian làng (cái mà UNESCO đã rất
tinh tế nhận ra khi công nhận di sản văn hóa thế giới của Tây Nguyên, không phải
là cồng chiêng, cũng không phải là âm nhạc cồng chiêng, mà là không gian văn hóa cồng chiêng, tức
không gian làng, với rừng của làng). Khi tự nhiên, tức không gian văn hóa,
không gian sinh tồn ấy của con người bị ô uế thì dòng chảy vốn hài hòa của nó bị
rối loạn, sẽ gây ra tai họa và đau khổ cho “ngũ quan tứ chi” của làng, của mọi
con người, mỗi con người trong làng. Quan niệm về tội như vậy, nên quan niệm về
hình phạt cũng khác thường. Khi tòa án của làng xử tội thì không phải nhằm trừng
trị một cá nhân nào, mà mục đích quan trọng nhất và duy nhất là tẩy đi sự ô uế đã
nhiễm lên làng, nhằm khôi phục sự trong sạch và dòng chảy hài hòa của tự nhiên.
Cho nên, đúng như các tác giả Mọi Kontum
nhận xét, tòa án làng bao giờ cũng đi đến hòa giải, cả làng cùng làm lễ xin lỗi
các yang, tức xin lỗi tự nhiên. Đương
nhiên người đã gây ra ô uế phải đóng góp nhiều hơn trong lễ hiến sinh tạ lỗi
này. Và còn có điều quy định: sau đó, không ai được nhắc lại chuyện cũ nữa. Hài
hòa được khôi phục hoàn toàn…([7])
Một nền tư pháp như vậy nhân bản, tốt đẹp biết bao. Chăm chú quan sát, trân trọng
và không một chút định kiến, ngày ấy Nguyễn Kinh Chi và Nguyễn Đổng Chi đã phát
hiện ra và ngạc nhiên vì tính chất nhân bản thâm thúy ấy, chân thành cảm phục một
nền đạo đức xã hội, một nền văn minh cao đẹp đến vậy ở những con người vẫn bị
coi là mọi rợ. Và đấy là động cơ chính của công trình đáng kinh ngạc hai ông để
lại cho chúng ta ngày nay.
Ở đây còn có điểm nên chú ý: ở trên ta thấy
có một chỗ Nguyễn Kinh Chi và Nguyễn Đổng Chi nhắc đến bộ lạc, nhưng rồi chỉ một
lần ấy, hai ông không trở lại với chuyện bộ lạc nữa([8]).
Các ông đã cảm nhận ra một điều quan trọng: Bộ lạc có tồn tại, đương nhiên,
nhưng không thành một đơn vị xã hội. Không có thiết chế của bộ lạc và bộ máy để
duy trì, vận hành thiết chế đó (Ở tộc người Gia-rai – có thể cả Ê-đê (Rhadé) – thì có, với hệ thống thị tộc chặt chẽ và phức tạp, mà phản
ánh vào thiết chế xã hội là hệ thống Pötao…). Trong ý thức, và trong thực tế,
làng đậm hơn, quan trọng hơn bộ lạc. Nó là trung tâm của đời sống Ba-na. Ngoài
làng là tơmoi, là moi, mọi. Đến đây có thể có một nhận xét
hơi buồn cười: như vậy trong cách nghĩ và đúng theo cách nói của mình, người Ba-na
coi (và gọi) người Việt – và người thuộc các tộc người khác – là tơmoi, mọi, trong khi ta nhầm lẫn coi và
gọi ngược lại!
Theo tôi, về vấn đề trung tâm này, hai
tác giả Nguyễn Kinh Chi và Nguyễn Đổng Chi, qua tác phẩm Mọi Kontum, đã đi trước hơn nửa thế kỷ. Các tác giả Pháp cùng thời
với các ông chưa ai tỏ ra thật quan tâm và nói rõ về điều này. Henri Maitre có
nhận thấy Tây Nguyên gồm các làng độc lập rời rạc. Nhưng thấy rõ tính chất của
quan hệ bên trên và nhất là bên dưới của nó thì chưa, nên cũng chưa nhận ra
tính chất và vai trò tế bào của làng trong cơ cấu xã hội Tây Nguyên, chưa nhìn
rõ được tính chất của quan hệ làng với cá nhân. Còn các nhà dân tộc học ta nói
chung, theo chỗ tôi được biết, hơn nửa thể kỷ sau mới đi đến khẳng định làng là
đơn vị xã hội cơ bản và duy nhất, là tế bào cơ bản của toàn bộ cấu trúc xã hội
Tây Nguyên cổ truyền. Cũng xin nói rõ: cái được gọi là “cổ truyền” đó thực tế
còn kéo dài đến tận năm 1975. Chính nó là yếu tố quan trọng nhất tạo nên sức mạnh
bền vững kỳ lạ của Tây Nguyên, cả trong chiến tranh chống Mỹ, đặc biệt ác liệt ở
chiến trường trọng điểm Tây Nguyên. Trong chiến tranh, làng ở đây bị đánh phá dữ
dội, nhiều khi đến tan nát, có làng bị bứng đi xa hàng nhiều trăm cây số, nhưng
rất kỳ lạ, làng không chết, cơ cấu làng vẫn còn, làng vẫn phát huy trọn vẹn tác
động của nó. Xã hội vẫn đứng vững. Xin nói rõ điều này: cho đến năm 1975 cơ cấu
xã hội Tây Nguyên về cơ bản còn nguyên vẹn. Đổ vỡ là về sau…
Nhân đây cũng xin nói đến một quan
sát và khẳng định chính xác của hai tác giả Mọi
Kontum, mà tận cho đến ngày nay những người xây dựng và thực thi chính sách
ở Tây Nguyên vẫn còn nhầm lẫn: theo các ông, người Ba-na không hề du cư (và
cũng không du canh). Các ông viết nhất quyết: “Họ ăn ở nhất định, chứ không rày
đây mai đó!”([9]). Buồn
thay, suốt 40 năm qua chính nhận định hời hợt và giáo điều coi người Ba-na (và
Tây Nguyên nói chung) du cư du canh đã là cơ sở cho một chính sách hàng đầu và lớn
nhất được thực hiện ráo riết khắp Tây Nguyên: ép buộc định canh định cư, thực tế
là dồn dân dồn làng, không ít khi đến tàn bạo! Thêm một tác động sai trái làm xáo
trộn và đổ vỡ cấu trúc làng. Không ai chịu đọc lại Nguyễn Kinh Chi và Nguyễn Đổng
Chi cẩn thận một chút trước khi bước chân lên Tây Nguyên và ra tay “cải tạo” cuộc
sống cho những “người mọi lạc hậu” trên ấy để quyết dẫn dắt họ đến “văn minh”
cho bằng ta!…
Trong thực tế, từ sau năm 1975, việc
nhận thức chậm trễ, sai lạc, không hiểu và không coi trọng vai trò, vị trí và cơ
cấu làng, không thận trọng xử lý đối với vấn đề này trong phát triển, đã dẫn đến
phá vỡ tế bào làng ở Tây Nguyên, làm đổ vỡ cả cấu trúc chung của xã hội, lại
chính trong lúc Tây Nguyên đang phải đối mặt với thách thức chưa từng có của hiện
đại hóa và thị trường, đưa nó vào thế bị tấn công cả hai phía, có thể nói khiến
xã hội này lâm vào jơlâm jơlu, rối loạn
đến độ khó quay trở lại.
Quả là trong Mọi Kontum, các tác giả chưa nói nhiều và kỹ đến nền tảng vật chất
và kinh tế của làng, vấn đề sẽ được các nhà dân tộc học trong nước về sau
nghiên cứu và xác định rõ hơn. Nền tảng đó là quyền sở hữu tập thể của cộng đồng
làng đối với đất và rừng. Rừng là của làng, từng làng, cụ thể và chặt chẽ. Ở
Tây Nguyên vốn không hề có rừng vô chủ, không một tấc rừng nào là vô chủ. Làng
tồn tại bền vững trên cái chân đế sở hữu này. Quốc hữu hóa toàn bộ đất, rừng
Tây Nguyên, tức là bứng đi mất cái chân đế đó, đưa thực thể làng vào thế treo
lơ lửng trên một khoảng trống không nguy hiểm, khiến nó tất sụp đổ. Làng trở
thành tơmoi của chính nó, xa lạ với
chính nó. Văn hóa tất cũng không thể còn, nếu không phải là một thứ văn hóa
cũng không có chân, văn hóa giả, suy tàn và khô cằn.
Có lúc tôi đã nghĩ, có thể vớ vẩn
chăng: giả như hôm nay Nguyễn Kinh Chi và Nguyễn Đổng Chi trở lại với các làng
Ba-na thân thiết của các ông, la cà cùng bà con như hơn 70 năm trước, các ông sẽ
cảm thấy thế nào? Chắc tất cả những ai từng sống ở Tây Nguyên đều có thể hình
dung: một cảm giác buồn nặng nề. Làng đìu hiu, lúng túng và ngơ ngác. Bản in Người Ba-na ở Kon Tum đã giới thiệu một sưu tập ảnh người Ba-na thời Kinh
Chi và Đổng Chi. Nhìn lại mà xem, họ thật đẹp. Vạm vỡ, rắn chắc, tươi tắn, và
nhất là bình tĩnh, tự tin. Ấy là khi họ còn hoàn toàn làm chủ cuộc sống của họ,
trong làng của họ, giữa rừng của họ, trước thiên nhiên của họ. Hồi ấy – khi hai
nhà dân tộc học nghiệp dư và tài tử của chúng ta đến với họ –, họ còn nghèo,
chưa giàu, cũng chưa “văn minh” như hôm nay, làng của họ chưa có điện, thậm chí
có thể chưa biết điện là gì, nói chi đến truyền thanh truyền hình và các thứ
tân thời hôm nay…, nhưng rõ ràng họ hoàn toàn chủ động, rất đàng hoàng trong cuộc
sống tự chủ và tự do của họ. Và hạnh phúc. Đến Ba-na, đến Tây Nguyên hôm nay,
không thể tự giấu đi cảm giác và suy nghĩ: ta đã làm như thế nào đó, với tất cả
sự giúp đỡ chăm chỉ, cặm cụi, tận tụy của chúng ta, thậm chí như chính ta nói: “cầm
tay chỉ việc” cho họ… vì họ “mọi rợ” lạc hậu lắm, … để rồi sau bao nhiêu năm,
sau 40 năm kể từ 1975, họ trở thành thụ động, ngơ ngác trông chờ, mất hết tự
tin… giữa một tự nhiên đã bị tàn phá đến thảm hại, trong ngôi làng mà họ không
còn làm chủ được đất và rừng của mình cho nên các thiết chế đã đảm bảo sức mạnh,
sự bền vững trường tồn của nó, nếu còn thì cũng chỉ là hình thức, giả, đánh lừa,
vô hiệu quả …
Khác biết bao nhiêu thời Mọi Kontum của Nguyễn Kinh Chi - Nguyễn
Đổng Chi! Đọc Mọi Kontum, không thể
không bị lôi kéo vì niềm hào hứng tươi rói của người viết. Hẳn vì sức trẻ, niềm
vui tìm tòi, khám phá hăm hở và đầy thương yêu của họ. Cũng hẳn vì niềm hạnh
phúc tỏa ra từ chính đối tượng mà họ quan sát và khám phá. Họ được chính đối tượng
ấy, sức sống rạng rỡ tỏa ra từ đối tượng ấy chinh phục. Thoạt tiên là Nguyễn
Kinh Chi (1899 - 1986), vị Bác sĩ trẻ được gửi lên làm việc ở miền thượng du xa
xôi. Không ít lần nghề y đã dẫn đến dân tộc học, như là hai ngành họ hàng. Vì chúng
đều chăm chú vào con người. Riêng ở Tây Nguyên đã từng có Bác sĩ Jouin, người
phụ trách y tế ở Đắc Lắc, là nhà Tây Nguyên học say mê và uyên thâm, người đã gợi
ý cho Georges Condominas đi vào tộc người Mnông Gar (M’non Gar) để rồi chúng ta
có được tác phẩm Chúng tôi ăn rừng tuyệt
vời; cũng là người hướng dẫn cho nhà nữ toán học Anne de Hautecloque-Howe đi
vào nghiên cứu hệ thống thị tộc và bào tộc phức tạp, tinh tế của Ê-đê để cho ra
đời cuốn sách độc đáo Người Ê-đê, một xã
hội mẫu quyền. Có thể chắc chắn việc tiếp xúc với các bệnh nhân Ba-na và
làm việc với các y tá Ba-na, song song với việc đọc các sách viết về người Ba-na,
đặc biệt của Giáo sĩ Dourisboure, cùng những lần
đi vào tận các làng xa rải rác trong núi chữa bệnh cho dân, đã kích thích trí
tò mò của Bác sĩ Kinh Chi. Từ tò mò, đến ngạc nhiên, rồi cảm phục, ông thấy cần
được thông truyền đến mọi người, trước hết đến đồng bào người Việt của ông niềm
tâm đắc và tình yêu mới của ông. Ông quyết định khởi xướng một công trình
nghiên cứu thật sự nghiêm túc về một nền văn minh anh em hết sức đáng trân trọng,
mà ông thấy cần có sự cộng tác của người em Đổng Chi năm ấy mới 18 tuổi, còn ở
dưới quê. Ông gọi Đổng Chi lên, và hai anh em cùng bắt tay vào công việc.
Họ thành một cặp đôi thật tuyệt. Có thể
hình dung mà không sợ quá sai: Bác sĩ Kinh Chi chia sẻ với em những suy nghĩ về
người Ba-na và dự tính của mình. Anh thanh niên Đổng Chi tiếp nhận và nhập cuộc
rất nhanh. Cứ như anh được sinh ra để làm chính công việc này. Anh sẽ là người
chủ yếu làm việc trên thực địa, miệt mài say mê thu gom tư liệu, để hai anh em
cùng căm cụi phân tích, đánh giá, chiêm nghiệm, nhận định, tổng hợp… Ta biết
trong quan sát và điều tra dân tộc học có một điều rất tế nhị: phải làm thế nào
để sự hiện diện của nhà dân tộc học, là người ngoài, người lạ đến quan sát, điều
tra, không làm biến dạng, làm méo mó một cách tất yếu hiện thực được quan sát,
điều tra. Nói một cách nôm na, người đến quan sát, điều tra phải có cách, có
tài tự triệt tiêu đến tối đa tư cách tơmoi
của mình trong mắt, trong cảm nhận của đối tượng bị quan sát, điều tra. Tự xóa
mình đi đến tối đa. Tự quên mình đến tối đa. “Bất vụ lợi” đến tối đa. Để có thể
nhìn, hiểu và cảm nhận đối tượng không còn từ bên ngoài vào, từ bên trên xuống,
mà là sâu từ bên trong, “theo chiều ngang”, đồng đẳng. Để cho cái quan sát và
nhìn thấy không còn chỉ là nhìn thấy, mà thành trải nghiệm và cảm nhận sống... Đồng
thời lại vẫn phải là nhà dân tộc học, người quan sát, điều tra chăm chú, tỉnh
táo, sắc sảo, khách quan, thậm chí lạnh lùng khi cần thiết, “vụ lợi” đến tối đa
vì mục đích quan sát, điều tra của mình. Những nhà dân tộc học từng trải và tài
năng đã nói về điều này, mỗi người một cách, dường như để cố diễn đạt đặc điểm
thiết yếu này của “nghề”, hay “nghiệp” dân tộc học. Georges Condominas chiêm
nghiệm: L’ethnologie, c’est un genre de
vie, mà tôi muốn dịch thành: Dân tộc học, ấy là một loại hình sống (chứ không phải một cách, một kiểu sống). Jacques
Dournes thì thống thiết: “Nếu phải hiểu để mà có thể yêu, thì lại phải yêu để
mà có thể hiểu”. Hơn ở đâu hết, trong nghiệp dân tộc học, không thể hiểu nếu
không thiết tha yêu, và là yêu với một sự kính trọng sâu xa, chân thành nhất.
Ở trên tôi đã dùng đến hai từ “nghiệp dư”
và “tài tử” khi nói về hai tác giả của Mọi
Kontum. Rõ ràng hai ông không hề được đào tạo về dân tộc học, thậm chí cả về
nghiên cứu khoa học nói chung. Nhưng đọc kỹ Mọi
Kontum, cũng rõ ràng họ nắm rất vững phương pháp nghiên cứu khoa học, nghiêm
túc, chặt chẽ, chủ động và sáng tạo; và họ theo dõi rất kịp thời, rất chắc những
tri thức dân tộc học mới nhất đương thời. Những người nghiệp dư làm việc rất
chuyên nghiệp.
Còn “tài tử” ư? Cho phép tôi nói điều
này: theo tôi, trong chiều sâu của mỗi nhà dân tộc học chân chính, đều có một
người nghệ sĩ. Có lẽ Georges Condominas cũng có ý nói về khía cạnh này của nghề
dân tộc học khi ông gọi dân tộc học là “một loại hình sống” (un genre de vie).
Quả vậy, ở đấy, hẳn là khác với ở mọi ngành khoa học khác, và rất gần với nghệ
thuật, nhà chuyên môn “chơi” toàn bộ cuộc đời mình, đắm mình đến cùng, không chừa
lại chút nào hết. Trong cặp đôi tác giả Mọi
Kontum, cũng có lẽ điều này biểu hiện rõ hơn ở Nguyễn Đổng Chi (1915 -
1984), người trực tiếp làm việc hàng ngày trên thực địa. Trong lời giới thiệu bản
in Người Ba-na ở Kontum, Andrew Hardy
có nói rằng anh thanh niên Nguyễn Đổng Chi đi vào các làng Ba-na, la cà cùng bà
con, và “vừa làm vừa chơi, vừa chơi vừa làm”, làm bằng cách chơi, chơi để làm.
Sau này ta sẽ gọi đó là “quan sát tham dự”. Xin nói thật, tôi không thích cách
nói này lắm, không thích bằng. “Tham dự” thì vẫn còn là khách, như là đi dự tiệc
vây! “Chơi” cho đến hoàn toàn tự nhiên mới là nhập cuộc đến cùng. Chỉ có chơi,
làm bằng cách chơi, chơi hết mình, đến quên mình đi, rất khoa học lại rất nghệ
sĩ, thì mới không còn là tơmoi, là
khách, là người lạ, người ngoài. Nguyễn Đổng Chi rất giàu đức tính tự nhiên đó.
Cũng chính Georges Condominas nói: “Để biết một món ăn Mnông Gar có ngon không,
thì phải là một người Mnông Gar”. Phải bằng lưỡi của người Mnông Gar để nếm và đánh
giá một món ăn Mnông Gar. Phải bằng chính hệ giá trị Mnông Gar mà đánh giá các
giá trị Mnông Gar trong thực tế cuộc sống của họ. Nhìn và hiểu thực tế Mnông
Gar, thực tế Ba-na bằng chính hệ giá trị Mnông Gar, hệ giá trị Ba-na. Làm như một
cuộc chơi tạo nên sự vô tư thật sự, thật sự đưa được mình vào bên trong cùng đối
tượng quan sát, nghiên cứu của mình – công việc và tư thế nhất thiết của một
nghệ sĩ. Đồng thời lại biết cùng lúc tỉnh táo đứng ra bên ngoài, tránh về một
bên đôi chút, để có được một so sánh sáng suốt với các giá trị phổ quát. Cũng
là một đặc điểm tinh tế của hành vi nhận thức nghệ thuật. Thật tuyệt vời là nhà
dân tộc học “nghiệp dư” và “tài tử” Nguyễn Đổng Chi cũng có được điều đó, một
cách nhẹ nhàng mà đồng thời lại rất chuyên nghiệp trong những cuộc la cà say mê
– tỉnh táo ở các làng Ba-na của anh. Thật tuyệt vời là Nguyễn Kinh Chi và Nguyễn
Đổng Chi đã làm được điều đó, gần như hoàn chỉnh trong Mọi Kontum, tác phẩm dân tộc học đầu tiên của tác giả Việt Nam. Có
thể nói như Corneille nói về Don Rodrigue: Coup d’essai, coup de maître, Đường kiếm thử đầu tiên đã là đường
kiếm bậc thầy!
Đã gần trọn ba phần tư thế kỷ kể từ ngày Mọi Kontum ra đời. Đọc lại, giật mình
không chỉ vì nó sớm một cách khác thường. Mà còn vì nó vẫn mới mẻ, thậm chí rất
thời sự. Không chỉ ở những tri thức đặc sắc và căn bản về Ba-na, về Tây Nguyên,
còn vô cùng cần thiết cho một sự phát triển bình ổn trên vùng đất này ngày hôm
nay. Có lẽ còn quan trọng hơn nữa, là cách nhìn Ba-na, nhìn Tây Nguyên của các
tác giả. Hai ông viết, thấm thía: “Tục lệ
của họ chẳng những không mọi rợ chút nào mà trái lại có nhiều điều còn thuần
túy hơn ta nữa kia”([10]).
Đến Ba-na, đến Tây Nguyên, Nguyễn Kinh Chi và Nguyễn Đổng Chi thấy mình gặp một
nền văn minh, mà các ông muốn được học, cho chính mình, và cho cả đất nước. Viết
Mọi Kontum, hai ông mong đem về cho văn
minh Việt những giá trị ấy, “còn thuần túy hơn ta nữa kia”.
Đọc Người
Ba-na ở Kontum hôm nay, không thể không nghĩ: Giá như 40 năm qua, từ sau
1975, ta cũng đến được với Tây Nguyên bằng một tâm niệm như thế, khiêm nhường,
chân thành và tha thiết như thế. Thì chắc mọi sự ở đây hôm nay đã khác rất nhiều.
Tháng
Giêng Ất Mùi
N.N.
([1]) Nguyễn Kinh Chi - Nguyễn Đổng Chi, Người Ba-na ở Kon Tum, in lần đầu do Mộng Thương Thư trai, Huế,
1937, dưới nhan đề Mọi Kontum. Viện Viễn Đông bác cổ Pháp Hà Nội dịch sang tiếng Pháp và phối hợp
cùng NXB Tri thức in song ngữ, H, 2011; tr.137. Các trích dẫn sau đều dựa vào bản
in lần này. Do trong bản gốc các tác giả diễn đạt bằng ngôn từ miền Trung, bản
in 2011 tôn trọng cách viết đó, nên khi trích dẫn, chúng tôi giữ nguyên các dấu
hỏi ngã khác biệt với cách viết phổ thông hiện nay.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét