Bs. NGUYỄN XUÂN QUANG
Suốt một đời, tôi miệt mài đi tìm cái căn
cước Việt, cái bản sắc Việt của mình. Từ nhỏ cho tới bây giờ, tôi đã được dậy,
đã nghe, đã thấy và đã đọc những điều cho là văn hóa Việt thật là mơ hồ, thật
là lẫn lộn với văn hóa Trung Hoa. Nếu chúng ta là Việt khác Trung Hoa thì cái
cốt lõi văn hóa Việt phải có sắc thái Việt, khác văn hóa Trung Hoa. Hãy lấy một
ví dụ, tại Little Saigon, Orange County, California, đang có dự án xây hai cái
cổng chào hình vòm ở hai đầu khu phố Việt trên đường Bolsa, những người thiết
kế hai cái cổng này vẽ hình Long, Li, Qui, Phượng và giải thích cho người Mỹ
hiểu theo ý nghĩa của tứ linh Trung Hoa. Khi nhìn thấy hình tứ linh này, thì ai
ai, nhất là người Tây phương, cũng đều cho đây là biểu tượng của người Trung
Hoa. Ngộ nhận là chuyện tất nhiên. Tôi đã lên tiếng và yêu cầu ít ra cũng nên
chọn những vật biểu thuần Việt chỉ riêng người Việt có mà người Trung Hoa không
có, nhằm mục đích để tránh được lầm lẫn, ngộ nhận, tránh tròng vào cổ cái ách
đô hộ của văn hóa Trung Hoa, cũng tránh biến Little Saigon trở thành Little Chợ
Lớn (chẳng hạn như thay thế Long, Ly, Qui, Phượng bằng Cò Lang, Chim Việt). Hãy
nhìn về diện vật tổ như vừa nói chẳng hạn, thì vật biểu, totem Việt phải thuần
Việt. Hôm nay xin nói tới con chim tổ tối cao tối thượng của Đại Tộc Việt là
con chim Việt. Chúng ta thường nghe nói tới con Chim Việt đậu cành
Nam và nghe bài hát Đàn Chim Việt. Tôi đã tìm thấy hình
bóng con chim Việt trong sử sách (Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử
Hừng Việt), trong sử miệng (Ca Dao Tục Ngữ Tinh Hoa Dân Việt)
và trong sử đồng (Giải Đọc Trống Đồng Âm Dương Đông Nam Á)
(đang in). Tôi biết khó có thể thuyết phục ngay được những
người làm văn hóa Việt hiện nay, nhất là những kẻ đang làm xiếc văn hóa Việt,
những tên phù thủy văn hóa Việt. Theo linh tính tôi biết con chim Việt phải còn
để lại hình bóng, dấu tích ở đâu đó trong văn hóa Việt Nam ngày nay, nhất là ở
những nơi thờ tự, miếu đình nào đó. Vì thế nhằm mục đích thuyết phục thêm nữa
các người làm văn hóa Việt và phục vị lại được con chim Việt, chim tổ của Đại
Tộc Việt, tôi quyết tâm, quyết chí đi tìm một hình bóng chim tổ Việt thật hết
sức đặc thù, thật hết sức dễ nhận diện, còn ở đâu đó, ngay trước mắt mọi
người, ai nhìn thấy cũng nhận biết ra ngay là chim Việt. Nhưng tìm kiếm bóng
chim Việt trong đời sống hàng ngày hiện nay thật là khó khăn vì tôi sống ở đất
Bắc, ở đất tổ, nơi chắc chắn còn nhiều dấu tích hình bóng chim Việt, lúc đó còn
quá nhỏ, vào Nam lúc còn học tiểu học và rồi ra hải ngoại. Dĩ nhiên trong Nam
và nhất là ở hải ngoại càng khó có cơ may tìm kiếm được. May mắn thay! Eureka!
Tôi đã tìm thấy! Tôi đã tìm thấy! Tôi đã tìm thấy! Tôi đã tìm thấy con chim Việt
rất đặc thù đang đậu ở Văn Miếu, Hà Nội.
Chim Việt là chim gì?
Trước hết nên biết Việt là gì?
Tôi đã viết rất cặn kẽ Việt Là Gì? trong
Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt và trong Y Học Thường Thức, ở đây chỉ xin
nhắc lại vài điểm chính yếu. Việt có nghĩa gốc, nghĩa chính
là búa, rìu, có nghĩa chung là vật sắc
nhọn. Việt là búa, vật nhọn cũng thấy qua tên vua Việt Câu Tiễn thời
Xuân Thu. Câu là chiếc móc cong như lưỡi câu, chiếc liềm (câu
liêm), Tiễn là Cắt như tiễn mía, là Tiện (cắt)
như thợ tiện, Tiễn là vật nhọn như mũi tên (hỏa tiễn dịch là
“tên lửa”). Câu Tiễn là vật, khí giới sắt bén hình nhọn và cong, một thứ việt
lưỡi cong. Việt lưỡi cong Câu Tiễn mang hình ảnh của chữ yuè (Việt)
khắc trên giáp cốt và kim văn:
Chữ yuè khắc trên giáp cốt và kim văn có
hình rìu lưỡi cong
(Wang Hongyuan).
Từ Việt là một từ Hán Việt. Tên của tộc họ
chúng ta không thể là một từ Hán Việt. Hiển nhiên từ Việt chỉ là một từ phiên
âm dịch nghĩa của một từ nôm trăm phần trăm nào đó. Từ Việt phiên âm dịch nghĩa
từ một từ Nôm nào? Việt phiên âm hay biến âm với các từ nôm:
–Vớt là “large knife” (used
as weapon): dao lớn dùng làm khí giới (Đặng Chấn Liêu). Cũng nên biết các
tộc thù nghịch và những người Việt có “Tây học” trước đây thường xỉ nhục những
người gốc Việt quê mùa là bọn “răng đen mã tấu”. Mã tấu là một thứ vớt,
thứ việt, chính là khí giới biểu của người Việt và răng đen là nét đặc thù của
người Việt thuộc tộc Mặt Trời Nước Lạc Việt Lạc Long Quân (màu đen là màu của
nước thái âm).
-Việt biến âm với Mường ngữ vác là
con dao lớn như chiếc mác, mã tấu. Theo v=m (váng = màng), ta có
vác = mác.
–Vọt (theo qui luật biến âm
ie=o như hiệp = hợp, ta có Việt = vọt). Nghĩa đen vọt là chiếc roi,
chiếc que, chiếc nọc.
-Việt còn biến âm với vạch (khắc,
chạm, viết bằng mũi nhọn), với Hán Việt viết cùng nghĩa với
vạch, với diết, diệt, giết (làm cho
chết bằng vật nhọn sắc như đâm, chém con thú bằng mũi dao, mác, lao, giáo, mũi
tên, rìu búa…).
Tóm lại Việt phiên âm hay biến âm với từ
vớt, vác (mác), vọt, vạch, viết có nghĩa chính là vật nhọn sắc, nọc nhọn ứng
với nghĩa Hán Việt búa, rìu. Dưới diện ý nghĩa biểu tượng, vật nhọn dùng làm
biểu tượng cho bộ phận sinh dục (nõ, nọc), đực (nọc), dương, thái dương, mặt
trời (dương là đực và cũng có một nghĩa là mặt trời). Vậy Việt mang một
ý nghĩa biểu tượng cho mặt trời, mang nghĩa mặt trời nọc, lửa, thái dương có
nọc tia sáng tỏa rạng ra như mũi tên, mũi mác (>) như nọc nhọn. Việt hiểu
theo nghĩa biểu tượng là MẶT TRỜI TỎA RẠNG, MẶT TRỜI RẠNG NGỜI, HỪNG RẠNG hay
muốn dùng theo Hán Việt thì là VIỆT MẶT TRỜI THÁI DƯƠNG. Chúng ta thuộc họ Việt
mặt trời rạng ngời, Việt mặt trời thái dương dòng thần Mặt Trời Viêm Đế, Viêm
Việt.
Hiểu rõ Việt như thế rồi, nhìn tổng quát
tất cả các tên, hiệu, biểu tượng, vật tổ, vật biểu, chim biểu, thú biểu về
ngành Nọc, dương của Đại tộc Việt đều có nghĩa nói chung là vật
nhọn (nọc, cọc, que, vọt, búa rìu,
dao, giáo, mác…), đực, dương, mặt trời thái dương tức là VIỆT ví dụ như
trăm lang (lang biến âm với chàng là con trai, chàng cũng là
chiếc đục ‘chisel’), Hùng (có một nghĩa là đực như thư hùng), chim
biểu của Lang Hùng, Hùng Vương là chim Lang, chim Hùng, chim Việt là chim Nọc,
chim Rìu; thú biểu bốn chân sống trên mặt đất là con thú Việt, là Hươu Việt nôm
na gọi là con Cọc (Việt Dịch Bầu Cua Cá Cọc)…
Chim Rìu, Chim Việt
Như trên đã nói, con chim tổ tối cao tối
thượng của Đại Tộc Việt phải là con chim Việt, chim Rìu. Tôi đã tìm thấy con
chim Việt này và đã viết trong ba bộ sử sách, sử miệng, sử đồng, nếu cần các
chi tiết xin tham khảo ở đó, ở đây chỉ xin nhắc lại một vài điểm chính yếu để
độc giả dễ theo dõi và dễ hiểu bài viết này mà thôi.
Hình bóng chim Việt qua:
Sử sách
Như đã thấy, qua ngôn ngữ, chim Việt là
chim Rìu. Đây chính là chim mỏ Cắt còn có tên là chim mỏ rìu như thấy qua bài
vè các loài chim:
Cũng còn có chú mỏ rìu,
Rõ là tay thợ, khẳng khiu chán chường.
Chim cắt là chim rìu, chim Việt của đại tộc
Việt ở Cõi Trên Tạo Hóa. Cắt liên hệ với Anh ngữ cut (cắt),
Phạn ngữ khad, to divide, to break, ta có k(h)ad = khắc = cắt
(t=d), Tiền cổ-Ấn Âu ngữ *kès– ‘cut’ và gốc Ngôn ngữ của chúng ta
Nostratic *k’aca. Theo chuyển hóa c=h (cùi = hủi), ta có cắt, cát, các = hac, hache (Pháp
ngữ), hacha (Tây Ban Nha ngữ), hack (Anh ngữ)
có nghĩa là rìu, búa chim… Chim cắt là chim rìu, chim Việt…
Chim Cắt là chim Rìu, chim Việt thấy rõ qua
truyện thần thoại Con Chim Torok hay Burong Tebang Rumah Bapok Mentua (Con
Chim Bổ Sập Nhà Bố Vợ) của thổ dân Kelantan, Borneo. Chim Torok là
chim bổ cắt. Mã ngữ torok là thọc, thục, đục, đực… Con chim bổ
sập nhà bố vợ hiển nhiên phải có mỏ là mỏ đục (chisel), mỏ rìu, mỏ cắt (Khai
Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt). Chim cắt Anh ngữ là hornbill, tên
khoa học là Rhinoplax vigil, (Forst., Bucerotidae) có horn là
sừng (vật nhọn) và bill là bổ là mỏ. Chim mỏ cắt có tên Hán
Việt là chim hồng hoàng. Chúng ta thường nói tới hai từ Lạc
Hồng hay Hồng Lạc, chúng ta là con Hồng cháu Lạc. Nhìn
dưới diện vật tổ chim thì Lạc Hồng là chim Hồng, chim Lạc. Chim Hồng là chim
Đỏ, chim Lửa, chim Lạc là chim Nác, chim Nước. Chim Lạc chim Nước có thể là
loài ngỗng trời (con ngỗng chân có màng là một loài chim nước) không phải là
loài cò, một loài chim Gió (xem Chim Lạc hay Cò Lang?). Chim Hồng, theo duy
dương, là chim hồng hoàng bổ cắt (xem dưới). Như thế chim cắt là chim Rìu, chim
Việt, Chim Lửa, chim mặt trời, chim Nọc, hồng hoàng.
Sử miệng Ca Dao Tục Ngữ
Hình bóng chim rìu, chim cắt còn thấy nhiều
trong ca dao như qua bài đồng dao Bổ nông là ông bồ cắt nói về
sáu con chim tổ của Đại Tộc Việt ứng với Việt Dịch Chim Nông Cắt ở Cõi Trên,
Tạo Hóa.
Bổ nông là ông bồ cắt,
Bồ cắt là bác chim di,
Chim di là dì sáo sậu
Sáo sậu là cậu sáo đen
Sáo đen là em tu hú
Tu hú là chú bồ nông.
……
Sử đồng
Hình bóng chim Rìu, Chim Việt bổ cắt cũng
thấy rất nhiều trên trống đồng âm dương Đông Sơn. Trên mặt trống đồng Duy Tiên,
mặt tuy bị vỡ nhưng còn thấy rõ hình ba con mỏ cắt, mỏ lớn, đầu có mũ sừng. Đây
là loài Great hornbill, loài mỏ cắt lớn nhất.
Chim cắt trên trống đồng âm dương Duy Tiên
(Nguyễn Văn Huyên).
Những hình thuyền trên trống đồng âm dương
Ngọc Lũ I, Hoàng Hạ đầu thuyền có hình Rắn-Nước miệng há rộng biểu tượng cho bộ
phận sinh dục nữ với hình chim mỏ rìu, biểu tượng cho bộ phận sinh dục nam đâm
vào miệng Rắn Nước. Đây là dạng lưỡng hợp sinh tạo thái âm thái dương ở cõi Đại
Vũ Trụ. Đuôi thuyền hình chim nông và ngay sau đuôi thuyền có một hay hai cây
nọc hình đầu chim cắt, ở dạng lưỡng hợp bổ nông (thiếu âm) với bồ cắt (thiếu
dương) ở cõi trời Tiểu Vũ Trụ. Trên nhiều trống đồng khác như trên trống đồng
sông Đà, một đuôi thuyền khắc đầu chim hình chiếc rìu (Giải Đọc Trống Đồng Âm
Dương Đông Nam Á).
…Vật Biểu Chim Mỏ Cắt Của Các Chi Tộc Khác Của “Đàn Chim Việt”.
Mường
Mường Việt cổ có vật tổ chim là chim tráng,
chim cháng. Giữa Việt và Mường có qui luật biến âm dấu sắc Mường =
dấu huyền Việt như mấn = mần (làm) nên ta có tráng (trai tráng)
= Việt ngữ chàng (chàng trai) và cháng = Việt ngữ chàng (đục, chisel). Chim
cháng là chim chàng, chim đục, chim rìu, chim mỏ cắt. Theo truyền thuyết Mường
hai con chim Kláng, Klao (tương ứng với truyền
thuyết khác là chim Ây, cái Ứa) đẻ ra trứng trăm trứng nghìn, nở ra muôn vật
muôn loài, đẻ ra người Đáo (tức người Kinh, người Việt) đẻ ra người Mường… Từ
Kláng chuyển sang Việt ngữ là Tráng, Chàng (đục) tức chim mỏ cắt (xem chương
Nhận Diện Danh Tính Hùng Vương trong Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt).
-Chim Khướng
Chim mỏ cắt cũng còn gọi là chim khướng như
thấy trong truyện thơ Mường:
Khách phương nào tới
Mà sao tốt tướng oai nghi
Như con chim khướng mấy thuở mấy thì
Bay qua lèn đá dựng,
Đã đứng nên đứng,
Đã ngồi nên ngồi…
(Truyện Út Lót – Hồ Liêu, Hoàng Anh Nhân,
t.2, tr.99).
Tác giả trên giải thích “Chim Khướng:
loại chim lớn, mỏ to và trên mỏ có mũ sừng cứng, thường gọi là chim Phượng
hoàng đất”. Tác giả đã không nhận diện ra được “chim Phượng hoàng đất ”mỏ
to và trên mỏ có mũ sừng” chính là chim cắt. Rõ ràng chim khướng là chim
cắt lớn great hornbill. Theo qui luật biến âm dấu sắc Mường = dấu huyền Việt ta
có khướng = khường và kh Mường = s Việt như khang = sang, không = sông,
nên khướng = khường = sường = sừng.
Con chim khướng là con chim sừng (đầu có mũ sừng), tức chim
hornbill và ta cũng thấy khướng biến âm với Hán Việt khương (có
nghĩa là sừng). Chim khướng là chim sừng, chim khương. Viêm Đế có họ là Khương
(sừng) như thế chim Sừng Khướng mỏ cắt là chim biểu của thần mặt trời Viêm Đế
họ Khương, của Viêm Việt. Chim cắt cũng được thờ phượng đúc thành tượng vàng
thấy trong truyện Út Lót. Nàng Út Lót nói với hai chị rằng: “Đồ vàng đúc
hình con chim cắt...”.
Ê-Đê
Người Ê-đê có chim mling, mlang thấy
qua bài hát
Anh đến từ nơi xa,
Anh mang theo chim mơ-linh từ nhà,
Chim mơ-lang từ buôn.
Anh nghĩ rằng em là con gái chưa tơ vương…
(Vũ Ngọc Phan, Tục Ngữ, Cao Dao, Dân Ca,
Việt Nam).
Chim mling, mlang này chính là chim cắt.
Điểm này ăn khớp trăm phần trăm với Mã Lai ngữ langling: the Southern
pied hornbill (chim cắt có lông sặc sỡ, nhiều màu ở miền Nam). Ta cũng thấy
rất rõ Mã ngữ lang: a generic name for hauks, kites and eagles (một tên
chủng loại chỉ diều hâu và ó, ưng). Như thế chim lang, chim linh chỉ
chung loài mãnh cầm, loài chim mang hùng tính biểu tượng cho đực, dương, phái
nam, mặt trời. Điểm này ăn khớp trăm phần trăm với hai từ lang và linh trong
Việt ngữ. Việt ngữ lang là chàng, con trai. Linh ruột
thịt với Ấn ngữ linga (bộ phận sinh dục nam). Linh biến
âm với lính (ngày xưa chỉ đàn ông con trai mới phải đi lính), với đinh theo
kiểu linh đinh. Đinh là con trai, thanh niên như tráng
đinh, lễ thành đinh. Rõ ràng chim mlang, mling là chim
langling, chim cắt, chim rìu, loài chim mang biểu tượng cho đực, dương, hùng
tính, mặt trời tức chim Việt. Theo giáo sư Trần Quốc Vượng, địa danh Mê Linh
mang tên loài chim Việt này. Ông dựa vào các nghiên cứu tổng hợp các tài liệu
lịch sử, ngôn ngữ và truyền thuyết dân gian, Mê (Ma, Minh, Mi) Linh là
Mling. Mling, mlang (cặp tên có tính chất lấp láy) theo tiếng của các dân tộc
Tây nguyên có nghĩa là một loài chim… Mọi tài liệu đều nói lên một cách thống
nhất huyện đó, bộ lạc đó, khi xưa mang tên một loài chim Mling với một thị tộc
(bào tộc) gốc thờ chim làm vật tổ. Đó là bộ lạc gốc thời Hùng Vương dựng
nước (Hùng Vương Dựng Nước, tập I, tr.154). Đối chiếu với truyền
thuyết và cổ sử Việt, hai Bà Trưng là con cháu, dòng dõi vua Hùng Vương. Hùng
Vương đóng đô ở Phong châu. Lê Ngô Các, Phạm Đình Toái, đã ghi lại rành rành
trong Đại Nam quốc sử diễn ca:
Bà Trưng quê ở châu Phong,
Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên.
Chị em nặng một lời nguyền,
Phất cờ nương tử, thay quyền tướng quân…
Hai Bà khi lên ngôi đóng đô ở đất Mê Linh
(Ý Nhĩa Ngày Lễ Hai Bà Trưng Mồng 6 Tháng 2 Âm Lịch, khoahoc.net). Mê-Linh,
Mlang, Mling, Langling là chim lang, chim biểu tượng cho Lang Hùng, là chim
chàng (chisel), chim đục, chim rìu, chim Việt, chim đực, chim biểu của Hùng
Vương (Hùng có một nghĩa là con chim đực). Hùng Vương thế gian theo duy dương
ngành lửa có một khuôn mặt chim biểu là chim cắt (có thể là loài chim cắt đất),
chim Việt đội lốt chim cắt chim sừng, chim Khướng, chim Khương Great Hornbill,
chim biểu của thần mặt trời Viêm Đế dòng Viêm Việt.
Người Co
Người Co ở Trà Bồng, Trà Mi (miền Trung
Việt Nam) có con chim biểu có mỏ rất lớn mang hình bóng chim rìu, chim cắt.
Người Ao (Âu) Naga ở Assam, miền cực tây
Vân Nam
Người Ao-Naga tức Âu-Rồng Nác, Âu-Long ruột
thịt với Âu Cơ-Long Quân, với Âu-Lạc. Chứng tích thờ chim cắt thấy đi kèm với
rắn nước, rồng đất cắc kè, kì nhông, kỳ đà, thằn lằn còn thấy nhiều ở người Ao
Naga. Trong nghệ thuật khắc gỗ của họ còn thấy chiếc rìu đầu chim mỏ cắt.
Đồ khắc gỗ của người Ao Naga có chiếc rìu
đầu chim mỏ cắt (Mills,
The Ao Naga).
Sắc dân này có tộc Ozukumtzur
(bird-became-woman) tự nhận là con cháu của chim Mỏ Cắt có hèm (taboo) là không
ăn thịt chim mỏ cắt (William Carson Smith, p.111).
Người Katu
Người Katu có căn nhà thiêng liêng trên nóc
có con chim đực.
Nhà của người Katu trên nóc có con chim đực (theo
Maurice).
Chú ý hình chim này đầu có nọc nhọn hay
sừng nhọn biểu tượng cho dương, lửa. Đuôi chim cũng vểnh lên thành hình nọc.
Đầu nọc (I), đuôi nọc (I) nghĩa là chim thái dương (II). Lưng chim là đường
sống nóc nhà có hình chuỗi chữ viết nòng nọc mũi mác, răng cưa, răng sói (>)
biểu tượng cho đực, nọc, dương, thái dương, mặt trời, theo thái dương (Càn) là
sóng lửa vũ trụ, ánh sáng, theo thiếu dương (Li) là rặng núi tháp, lửa thế
gian. Con chim mang hình ảnh con chim cắt.
Người Ngaju, Dayak Nam Borneo.
Giáo sư Kim Định cho họ là Bộc Việt. Hai vật
tổ tối cao tối thượng cuả người Ngaju thuộc tộc Dayak, ở miền Nam Borneo là Rắn
Nước (Watersnake) và Mỏ Cắt (Hornbill). Chim Cắt gọi là Tingang,
trong ngôn ngữ của thầy tế pháp sư gọi là bungai. Vật tổ này thường
thấy vẽ, khắc trên hình thuyền Chim Cắt, Thuyền Rắn Nước, những con thuyền mà
các thần tổ dùng đi từ thượng giới xuống trần gian.
Người Hắc Đảo ở Đại Dương châu.
Các Thổ dân Hắc Đảo cũng coi chim cắt là
biểu tượng cho đực, dương, lửa, mặt trời. Mỏ bồ cắt là biểu tượng cho cơ quan
sinh dục nam như thấy qua hình chim mỏ cắt để trong một miếu âm hồn ở Maprik,
Papua, New Guinea.
Chim mỏ cắt để trong một miếu âm hồn ở
Maprik, Papua, New Guinea (Richard
Cavendish, p. 282).
Mỏ chim biểu tượng dương vật trong khi mặt
trăng ở thân người chim biểu tượng âm hộ. Hình diễn tả nõ nường, nòng nọc, âm
dương sinh tạo, giao hợp âm dương. Ở đây ta cũng thấy rõ chim cắt có
một khuôn mặt là mặt trời giao hòa với mặt trăng ở thân người chim.
Tóm lại vật tổ chim Mặt Trời thuần dương
của họ Nọc Việt Mặt trời thái dương là con chim Cắt, chim Rìu, chim Việt, chim
Hồng hoàng. Chim Cắt là chim Nọc (Đực), Chim Việt biểu tượng của họ Nọc Mặt
trời Viêm Đế, Viêm Việt.
Những nét đặc thù của chim cắt, chim rìu,
chim Việt.
Sau đây là vài đặc tính của chim cắt:
1. Mỏ lớn và dài (prominent bill). Mỏ là
yếu tố chủ yếu, nổi bật, đập vào mắt.
2. Có giống cắt có sừng ngà hay “mũ bảo vệ
đầu” (bony casque or helmet) nhô ra sau trông như bờm. Chim cắt ngoại trừ hai
giống sống dưới đất còn tất cả làm tổ trên chóp ngọn cây cao. Sống trong những
rừng cây Đông Nam Á, Ấn Độ, Phi châu, Nam Arabia. Dĩ nhiên Việt Nam cũng có
chim này. Trên bìa báo Khoa Học của khoa học gia Nguyễn Công Tiễu số 65 ngày
1er Mars 1934 cũng có vẽ hình con chim “có phong tục lạ”
(khi con cái ấp trứng, con đực lấy bùn đắp kín tổ lại, nhốt con cái bên trong,
chỉ chừa một lỗ nhỏ để đưa mồi vào nuôi con cái ấp trứng) tên Tây là dichocère và
“ta gọi là chim hồng hoàng”. Tại tòa báo Khoa Học ở Ngọc Hà có nuôi một
con để độc giả đến xem. Mỏ Cắt Lớn có mỏ lớn dài gần hai tấc rưỡi (25cm) rất
đặc biệt. Mũ (casque) con trống có rãnh sâu. Mũ con cái bằng phẳng. Con chim
“hồng hoàng” trưng bầy ở tòa báo Khoa Học chính là con Bồ Cắt Lớn, qua lời tả “chim
nuôi ở tòa báo dang hai cánh đo được 1 thước 74, từ mỏ đến hết lông đuôi dài 1
thước 25… Mỏ màu vàng trên be ra nom như múi khế…”.
3. Nhưng điểm đặc thù nhất của
chim mỏ cắt là cách ăn.
Vì mỏ quá to nên khi ăn phải gắp, nhặt lấy
quả hay hạt rồi tung cao lên trời và há to mỏ hứng cho hạt rơi vào phần sau của
mỏ gần cổ họng thì mới nuốt được thức ăn. Đây là một nét đặc thù thấy trong các
biểu tượng chim cắt thái cổ. Con chim mỏ to như mỏ rìu có mũ sừng, ngậm
hạt trong mỏ trăm phần trăm là chim cắt.
Họ cũng có thuyền vong hình Rắn Nước cho
phái nam và thuyền vong hình Chim Cắt cho phái nữ. Chim bổ cắt đầu thuyền có
nét đặc thù chuyên biệt là mỏ đang mổ một quả hay hạt thức ăn.
Thuyền linh hồn bổ cắt hay thuyền châu báu
dành cho phái nữ của người Ngaju (Hans Scharer, Plate XIX, illustration 22). Lưu ý đầu
thuyền đầu chim bổ cắt đang mổ một quả hay hạt thức ăn.
Con Chim Cắt, Chim Việt Đậu Ở Văn Miếu, Hà
Nội
Tôi đã tìm thấy con chim tổ bổ cắt ngậm quả
hay hạt thức ăn này ở Văn Miếu, Hà Nội. Con chim mỏ to như mỏ rìu, có
mũ sừng, ngậm hạt trong mỏ này trăm phần trăm là chim cắt, chim rìu, CHIM VIỆT.
Con chim Việt ngậm quả, hột thức ăn trong
mỏ tại Văn Miếu, Hà Nội.
Con chim cắt Việt này đã linh vật hóa, thần
thoại hóa thành linh điểu Việt nên ngày nay không ai nhận ra. Hiển nhiên như đã
thấy với điểm đặc thù ngậm quả, hạt trong mỏ đây không phải là con chim phượng
của Trung Hoa. Chim phượng biểu tượng cho Lửa, là con chim Lửa có cốt là con
chim trĩ, có đuôi rất dài như những dải lụa vì thế còn có tên là chim giải cùi.
Con chim ở đây đuôi ngắn. Đây là con chim Việt cũng là chim biểu cho Lửa nhưng
có cốt là con chim rìu, chim cắt. Hai con mang ý nghĩa biểu tượng khác nhau.
Chim phượng có cốt là chim trĩ, thuộc họ nhà gà, sống nhiều trên mặt đất nên
biểu tượng cho Lửa đất, lửa cõi thế gian có một khuôn mặt chính ứng với Li,
trong khi chim Việt, chim rìu, chim cắt có loài sống trên cao, làm tổ trên ngọn
cây cao như thấy qua bài đồng dao:
Bổ cu, bổ cắt,
Tha rác lên cây,
Gió đánh lung lay,
Là ông Cao Tổ…
Bài hát này ở thể chơi chữ. Cao tổ là tổ
rất cao mà cũng có nghĩa là ông tổ tối cao hay vua Cao Tổ nhà Hán… Chim Cắt
sống, làm tổ trên ngọn cây cao biểu tượng cho Lửa trời, lửa vũ trụ ứng với Càn.
Lửa vũ trụ sinh ra lửa thế gian. Chim Cắt Việt cõi Tạo Hóa là chim tổ tối cao
của Đại tộc Việt. Chim Cắt Việt, chim (mũ) Sừng, chim Khướng, Hornbill là chim
biểu của thần mặt trời Viêm Đế có họ Khương (Sừng), là chim biểu của Viêm Việt.
Chim Cắt Việt tạo hóa là ông tổ của chim phượng thế gian của Trung Hoa. Văn hóa
chim phượng của Trung Hoa là văn hóa thế gian, là di duệ, con cháu của văn hóa
chim Cắt Việt vũ trụ. Sau này có lẽ bị ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa các nhà
nho cũng hay nói tới con trĩ Việt tức trĩ lửa thế gian. Cắt Việt vũ trụ là chim
tổ của trĩ Việt thế gian, là chim tổ của trĩ phượng Trung Hoa. Ta thấy rất rõ
chim cắt là chim Việt nên còn thấy trên trống đồng âm dương Đông Sơn, trong khi
chim phượng của Trung Hoa chỉ thấy trên trống đồng ở vùng Nam Trung Hoa và Nam
Dương, hai nơi bị ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa.
Hạnh phúc thay! Tôi đã tìm thấy con chim
Việt, chim biểu của Đại Tộc Việt ở Văn Miếu, Hà Nội, nơi biểu trưng cho trí tuệ
Việt, đầu óc Việt, tinh hoa Việt, tinh anh Việt. Tôi đã tìm thấy hình bóng tổ
Việt, tìm thấy một mấu chốt của căn cước Việt của mình trong đời sống tâm linh
hàng ngày hiện nay. Mong các nhà làm văn hóa Việt nhận ra điểm này và giúp cho
con chim Việt vỗ cánh bay bổng trở lại trên bầu trời non nước Việt Nam. Giới
khoa bảng ưu việt đã bảo tồn, lưu truyền lại hình bóng chim tổ Việt tại Văn
Miếu. Để tránh lầm lẫn với văn hóa Trung Hoa, xin hãy thay thế con chim phượng
Trung Hoa bằng con chim Việt có cốt là con chim cắt, chim rìu đang ngậm quả,
hạt này.
Tài liệu tham khảo
.Đặng Chấn Liêu, Từ điển Việt Anh, nxb KHXH, 1993.
.Hans Scharer, bản dịch Anh ngữ của Rodney
Needham, Ngaju Religion.
.Hoàng Anh Nhân, Tuyển tập truyện thơ Mường, t.2.
.Nguyễn Văn Huyền, Hoàng Vinh, Những Trống Đồng Đông Sơn Đã Phát Hiện ở
Việt Nam, Viện Bảo Tàng Lịch Sử Việt Nam xuất bản 1975.
.Kim Định, Việt Lý Tố Nguyên; Hùng Việt Sử Ca, Thằng Mõ xuất bản 1984.
.Mills, The Ao Naga.
.Nguyễn Công Tiễu, báo Khoa Học, số 65 ngày 1er Mars 1934 tr.26.
.Nguyễn Xuân Quang:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét