Ts. NGUYỄN
TIẾN HỮU,
Nguyên
giáo sư ĐH München và ĐH Passau, CHLB Đức
Lời TMT: Cách đây hai năm, chúng tôi đã có dịp bước đầu tập hợp một số
tư liệu khảo cổ, thư tịch, văn bia, thần tích… để làm sáng tỏ chân dung Triệu
Đà – vị hoàng đế vương quốc Nam Việt của cộng đồng người Bách Việt. Nhà Triệu – mấy vấn đề lịch sử (2017) đã
được bạn đọc háo hức đón nhận. Các nhà nghiên cứu xem như đây là một bước đột
phá mới trong nghiên cứu lịch sử văn hóa Bách Việt, trong đó có những người dường
như gắn bó quên mình với những ý tưởng khoa học mới, như Nguyễn Vũ Tuấn Anh và
Hà Văn Thùy. Ấy là chưa điểm đến khá nhiều nhà nghiên cứu lịch sử khác trên thế
giới. Trung tâm văn hóa Minh Triết đã và đang tạo điều kiện thuận lợi nhất; từ
tọa đàm, hội thảo đến in sách để từng bước khẳng định một chân lý khoa học lịch
sử. Lần này, chúng tôi trân trọng giới thiệu một bài viết khá công phu của tiến
sĩ Nguyễn Tiến Hữu. Hy vọng là sẽ được đón nhận, cộng tác nhiều hơn nữa của các
nhà khoa học.
DẪN NHẬP
Nhân kỷ niệm 10 năm kết nghĩa giữa hai thành
phố Fankfurt (Đức) và Quảng Châu (Trung Quốc), lãnh đạo hai thành phố đã tổ chức
một cuộc triển lãm rất công phu và tốn kém tại Fankfurt nước Đức (từ 15.12.1998
đến 22.01.1999) và tại tp. München (từ tháng 1 đến tháng 3.1999). Tên cuộc triển
lãm là: Bảo vật vua Triệu Mộ - Lăng mộ vua Nam Việt. Nguyên văn Đức ngữ là
Schätze für König zhao Mo - Das Grab von Nan Yue.
Thành phố Fankfurt đã xuất bản một cuốn sách
nghiên cứu rất khoa học, dày 367 trang (khổ lớn 23 x 29 cm) có hàng ngàn hình ảnh,
đồ họa với tính khoa học nghiêm túc, để giới thiệu cuộc triển lãm. Sách có giá
khá đắt (50 Euro thời 1999) đúng tầm cỡ cuộc triển lãm “vĩ đại” lần đầu tiên ra
mắt tại Châu Âu (theo lời giới thiệu đầu sách) (1). Hiện nay tôi đang sở hữu cuốn
sách này. Các bảo vật được triển lãm gồm hàng ngàn cổ vật là đồ tùy táng trong
ngôi mộ: trống đồng, thạp đồng, gương đồng, đồ gốm, ngọc bích… toàn là cổ vật sản
xuất thời đại Đông Sơn do dân Lạc Việt thời Hùng Vương chế tác. Các chuyên gia
khảo cổ học và cổ sử người Đức đã khẳng định như thế trong các bài chuyên khảo,
nhưng các các nhà nghiên cứu và các quan chức Trung Hoa (Phó giám đốc bảo tàng,
chủ tịch Hội kết nghĩa hai tp. Fankfurt và Quảng Đông…) thì giới thiệu bảo vật
của bảo tàng một cách mập mờ chủ yếu đề cao Tây Hán mà phớt lờ Nam Việt vốn có
địa vị độc lập, tự chủ dưới thời nhà Triệu.
Với tên gọi bảo tàng bằng chữ Hán là Tây Hán
Việt Vương mộ bác vật quán, người Trung Quốc muốn nhấn mạnh đến Tây Hán hơn là
Nam Việt và phớt lờ địa vị chủ ngôi mộ là một hoàng đế Nam Việt có con dấu Văn
Đế hành tỉ (Wen Di xong xi) được chôn theo nằm trên ngực mình. Đáng lẽ ra phải
đặt tên là “Lăng mộ bác vật quán thời Tây Hán” mới đúng tinh thần của chủ mộ.
Cái tên này được các học giả Đức dịch đảo ngược lại thành “Bảo vật vua Triệu Mộ
- Lăng mộ vua Nam Việt”. Họ bỏ chữ “Tây Hán” và nhấn mạnh chữ Nam Việt.
Nhà nghiên cứu Trương Thái Du cũng chung một
quan điểm khi ông đề cập đến cái tên gọi của bảo tàng bằng chữ Hán “Tây Hán Việt
Vương mộ bác vật quán” . Ông viết: “Thấy chữ này như một chiếc cũi vô hình trói
buộc nhận thức, định dạng di tích mộ Nam Việt Văn vương trong vòng cương tỏa của
nền văn hóa Hán tộc, mặc dù ý chí độc lập và tự cường gần 100 năm của các triều
đại Nam Việt vương là không thể phản bác. Bằng chứng là từ thời Triệu Đà, Nam
Việt đã chịu xưng vương trước nhà Hán nhưng Triệu Hồ vẫn sử dụng “Văn Đế hành tỉ”,
chữ Đế xem như một biểu tượng bất khuất” (2).
Trong bài này tôi chỉ bàn về các bài giới thiệu
cuộc triển lãm của các học giả Đức và các quan chức người Trung Hoa đại diện
cho chính quyền hai thành phố kết nghĩa. Phần này rất quan trọng đối với độc giả
xem triển lãm vì nó có tính cách hướng dẫn và định hướng cho cuộc triển lãm.
NGƯỜI
TRUNG QUỐC MUỐN ĐÁNH TRÁO
QUA MẮT
CÁC CHUYÊN GIA NGƯỜI ĐỨC
Gần đây học giả Trung Quốc Quan Mẫn (Guan Min)
trong bài nghiên cứu “Tứ đại phát minh của Trung Quốc: liều thuốc độc của phép
thắng lợi tinh thần” (3). Nói về thói quen Trung Quốc hay “nhận bừa” những phát
minh của nhân loại làm của riêng mình như đúc đồng, luyện kim, kỹ nghệ ngọc thạch,
kỹ nghệ thủy tinh, thuốc nổ, kim chi nam, thuật in ấn, làm giấy,… Quan Mẫn phê
phán nghiêm khắc“người Trung Quốc vốn kiêu căng, cho rằng Trung Quốc là nơi
phát minh sớm nhất” còn các dân tộc khác như Bách Việt là loại man di.
Nay nhân dịp giới khảo cổ học phát hiện ra
Lăng mộ của Triệu Văn Đế tại Quảng Châu vào năm 1980 và đã xây dựng một bảo
tàng đồ sộ mang tên “Lăng mộ Triệu Văn Đế” (gần Phiên Ngung Quảng Châu, kinh đô
Nam Việt xưa). Triệu Văn Đế cũng có tên là Triệu Muội, Triệu Mộ hay Triệu Văn
Vương, là cháu nội của Triệu Đà làm vua Nam Việt từ năm 124 đến năm 112 TCN.
Lợi dụng cuộc triển lãm quy mô này, người
Trung Quốc vốn có sẵn mưu đồ đại Hán (chiếm đất, chiếm văn hóa các dân tộc ngoại
bang), khuếch trương, khoe khoang nền văn hóa Hán tộc và phớt lờ nền văn hóa bản
địa của phương Nam đã một thời là một vương triều đứng ngang hàng với hoàng đế
Tây Hán trị vì gần 100 năm qua năm triều đại của nhà Triệu (207 - 111 TCN), với
một nền văn minh xán lạn phát triển rất cao, có ảnh hưởng lớn đến văn hóa Hán tộc
sau này. Đó là nền văn hóa Đông Sơn thời Hùng vương.
NAM VIỆT
DƯỚI THỜI NHÀ TRIỆU
Khi Triệu Đà sang đánh An Dương Vương thì bên
Trung Quốc nhà Tần đã suy, nhà Hán sắp lên trị vì. Đang lúc Trung Quốc có đại
loạn, chính trị rối rắm thì Triệu Đà cai trị Nam Việt như một nước hoàn toàn độc
lập, tự chủ, tuy bề ngoài còn triều cống vua Hán cho có lễ nhưng trên thực tế
thì Triệu Đà và các vua sau đã cai trị Nam Việt như ông vua một nước độc lập,
thậm chí tự xưng là Đế ngang hàng với hoàng đế phương Bắc. Sau này Triệu Văn Đế
cũng dùng con dấu “Văn Đế hành tỉ” (wen di xing xi), mà tiến sĩ Uta Lauer, Đh.
Fankfurt (Đức), chuyên gia khảo cổ học đã dịch sang Đức ngữ là “Siegel des
Kaisers” “con dấu của Hoàng Đế”(Kaiser có nghĩa là Hoàng đế) (4).
Vấn
đề độc lập tự chủ của Nam Việt dưới thời nhà Triệu được các học giả người Đức
nhấn mạnh và mô tả rất khoa học kèm theo nhiều hình ảnh và dịch đúng nghĩa,
đang lúc các quan chức Trung Quốc phớt lờ những điểm này mà chỉ nói đến Tây Hán
mà hoàng đế có quyền thực sự kể cả trên đất Nam Hải tận biên cương phía Nam xa
xôi. Đó là bài giới thiệu cuộc triển lãm của ông Lin Shusen, thị trưởng thành
phố Quảng Châu với câu như sau “Năm 1983 ngôi mộ vua Nam Việt vương được khai
quật và được xem như kho tàng quý giá của văn hóa thời Tây Hán trong vùng Lĩnh
Nam… cuộc triển lãm trưng bày hàng ngàn hiện vật tùy táng sẽ giúp hiểu biết lịch
sử xã hội thành phố Quảng Châu hơn 2000 năm trước…”(5).
Bài giới thiệu này chỉ 15 hàng ngắn gọn, đang
lúc các bài của các học giả Đức toàn là những nhà khảo cổ danh tiếng thì rất
dài như bài giới thiệu của tiến sĩ Margarete Prüch, người chủ biên cuốn sách
này, dài tới 5 trang sách cỡ lớn; hoặc bài của tiến sĩ Hermann Josef Röllicke với
đề tài “Nam Việt theo sử gia Tư Mã Thiên (145 - 85 TCN)”
dài 12 trang với 21 chú thích khoa học, tham
khảo; bài của tiến sĩ Lucas Nickel “Lăng mộ bằng đá của vua Nam Việt” dài 15
trang với 47 chú thích khoa học. Trong bài nghiên cứu của tiến sĩ Nickel, tác
giả luôn dùng những lời lẽ tôn kính đối với vương triều nhà Triệu và chứng minh
Nam Việt là một vương quốc hùng mạnh, độc lập với Hán triều phương Bắc. Tác giả
nói “Chủ nhân của ngôi mộ là Triệu Văn Đế, vị hoàng đế thế hệ thứ hai sau Triệu
Đà là vị hoàng đế khai quốc Nam Việt, một vương quốc cường thịnh ở thế kỷ thứ
II TCN (6)”. Tiến sĩ L. Nickel mô tả lăng mộ Triệu Văn Vương “như một triều
đình thu nhỏ của thiên hạ ý thức được quyền lực đế vương của mình, không thua
kém những hoàng đế phương Bắc. Ngoài các đồ mai táng quý giá ra còn có cả thân
nhân gia quyến của cả một triều đình cùng kẻ hầu hạ (15 người) cũng được chôn
theo:
Mũi
tên đồng Họa
tiết thuyền người chim trên Thạp
hoàng hậu, phi tần, quan hầu hạ, ngựa xe…”
(7). Ts. Nickel đặc biệt mô tả“các thùng đựng đồ mai táng nhỏ được đóng con dấu
hoàng đế (Di yin) trên đất nung. Đây là con dấu chỉ riêng hoàng đế dùng, không
ai có quyền dùng nó. Điều này đặt ra câu hỏi liệu lăng mộ này đã được Triệu Mộ
cho xây khi ông còn sống và tự tay đóng dấu này lên các thùng đựng đồ mai táng,
các nhân vật sẽ được tuẫn táng sau khi ông mất. Toàn bộ quy mô hoành tráng với
11.465 báu vật và 15 nhân mạng tùy táng với xe ngựa, châu ngọc quý giá, các con
dấu cá nhân và của cả hoàng hậu là ý định của Triệu Mộ cho hậu thế có một khái
niệm về một vương quốc Nam Việt hùng mạnh, tự cường khác với những gì sử sách của
Hán tộc phương Bắc có thể viết không đúng về Nam Việt” (8). Tiến sĩ Nickel viết
tiếp: “Sử gia Hán triều xem Triệu Mộ là một ông vua thuộc quốc (tiếng Đức:
Lehenskönig) dưới quyền hoàng đế nhà Hán, nhưng toàn cảnh lăng mộ lại tỏ ra người
chủ mộ tự đặt mình ngang hàng với Hán đế, không chỉ các con dấu to nhỏ đủ cỡ với
dòng chữ Văn Đế hành tỉ (Wen Di xing xi) mà còn cả trên các chuông đồng nhạc cụ.
Ông không bao giờ tự nhận mình là vua (Đức ngữ là König) mà đàng hoàng là một
hoàng đế (Đức ngữ là Kaiser) (9)”. Ngay ông nội của chủ mộ là Triệu Đà cũng tự
xưng là Triệu Vũ Đế (Wudi), thì chủ mộ cũng tự xưng là Triệu Văn Đế (Wendi). Tiến
sĩ Nickel nói tiếp “Việc này tỏ ra là một hành động ngang ngược quá sức (Đức ngữ
là ungeheuer provoquant) chẳng có một chút mảy may phục tùng Hán đế… Ngay cái
tên nhạc phủ (yue fu) với các nhạc cụ cung đình như chuông, đàn đá… cũng tỏ ra
chủ mộ có riêng một triều đình uy nghi của một vị hoàng đế. Một ngôi mộ với
chuông, khánh của một nhạc phủ như thế không thể có ở các ngôi mộ của một nước
chư hầu nào mà người đứng đầu chỉ là vua (vương hầu, tiếng Đức: Lehenskönig).
Ngôi lăng mộ của Triệu Văn Đế rõ ràng là một dấu hiệu chính trị đối ngoại và
ngoại giao chứng tỏ mình đường đường là một hoàng đế Nam Việt mà Hán triều
phương Bắc phải công nhận. Tại triều đình Triệu Văn Đế, ông phớt lờ các luật lệ
nghiêm ngặt của Hán triều cấm mai táng theo lối nhà Hán, chỉ dành riêng cho bậc
thiên tử nhà Hán trung ương. Lăng mộ Triệu Văn Đế đã nâng cao vị chủ mộ lên một
bậc: mộ kiểu hoàng đế của một người tự xưng là hoàng đế khi còn sống” (10).
Các tác giả người Đức trong cuốn sách này đều
có chung một quan điểm như tiến sĩ
Nickel trong bài viết về Triệu Văn Đế. Đó là các học giả: Ts. Hermann
Josef Röllicke với bài Nam Việt theo
sử gia Tư Mã Thiên (145 - 85 TCN)” (11). Ts. Andrea C Keller với bài Thế giới người chết thời Tiền Hán (12). Ts.
Jesica Rawson với bài Nơi ở vĩnh cửu: Những
ngôi mộ các vua Nam Việt và các hoàng tử ở Đông Trung Hoa (13).Ts.
Magdalene von Dewall với bài Miền Hoa Nam
- nơi gặp gỡ các nền văn hóa cổ sử (14).Ts. Thomas O. Höllman với bài Phiên Ngung cánh cửa phía Nam đi vào Trung
Hoa thời nhà Hán (15).Ts. Uta Lauer với bài Khép kín lại và đóng dấu ấn - Các con dấu trong lăng mộ vua Triệu Mộ
(16).
Và
sau đây một vài trích dẫn bài của ông Lin Qihua, nhà khảo cổ học Trung Hoa, là
một trong bốn Phó Giám đốc bảo tàng, với đề tài “Ngôi mộ vua Nam Việt tại bảo
tàng Quảng Châu”. Bài viết gồm 7 trang không có chú thích khoa học (17). Bài
này ông Lin Qihua chủ yếu kể lại công cuộc khai quật ngôi mộ Triệu Văn Đế tại
Quảng Châu. Có nhiều sai lầm cố ý hạ giá trị vị trí chính trị và văn hóa bản địa
Bách Việt vốn rất cao của Nam Việt. Sau đây là vài sai trái của ông Lin Qihua:
-
Ông viết “có 1000 đồ mai táng”(18) (thực sự là có 11.465 đơn vị)
-
Ông không nói đến các thạp đồng, gương đồng và những đồ đồng, đồ gốm
có nguồn gốc Đông Sơn. Các gương đồng mà những tác giả nước Đức mô tả rất kỹ và
rất khoa học đề cao nghệ thuật đúc đồng và kỷ thuật làm thủy tinh của Nam Việt.
-
Về đồ đồng ông Lin Qihua chỉ viết“có hơn 300 cổ vật làm bằng đồng…”. Sự
thật đồ đồng mai táng trong lăng mộ có 600 hiện vật (19). Các báu vật này rất
quan trọng minh chứng kỷ thuật đồng sắt của Bách Việt thời ấy rất cao và có nguồn
gốc đồ đồng Đông Sơn.
-
Về các miếng thẻ ngọc thạch ông Lin Qihua viết: “có 240 miếng, đặc biệt
là bộ áo của vua được kết nối với những sợi tơ lụa” (20). Sự thật số ngọc thạch
rất nhiều, riêng bộ áo vua mặc đã có đến 2.291 thẻ ngọc (21).
Ông kể lại các cuộc triển lãm lưu động những
báu vật lăng mộ Triệu Văn Đế ở nhiều nơi như Hồng Kông (1991), Nhật (1996), Đài
Loan, đặc biệt là tại nước Đức, lần đầu tiên trên đất Châu Âu. Ông viết: “Nhân
dịp kỷ niệm 10 năm kết nghĩa hai thành phố Quảng Châu và Fankfurt, 100 báu vật
quan trọng từ ngôi mộ được đưa sang Đức triển lãm để dân chúng được chiêm ngưỡng
và có được một ấn tượng về nền văn hóa của Quảng Châu trước 2000 năm trước
(22). Không một lời về Nam Việt mà chỉ nói văn hóa Quảng Châu, làm cho dân
chúng Âu Châu lầm tưởng là văn hóa Trung Hoa vì họ chỉ biết Quảng Châu nằm
trong tỉnh Quảng Đông của Trung Quốc”. Ông Lin Qihua viết tiếp: “về phong cách
hình dáng ngôi mộ đặc biệt chú trọng phong cách kiến trúc mộ táng thời Hán”
(23) vẫn khác với phong tục phương Nam của Nam Việt.
Ông nhấn mạnh đến văn hóa Đại Hán, đặc biệt ở
bức tường hai bên cổng chính vào Bảo tàng được trang trí bắt chước những miếng
bi ngọc (thuộc đồ mai táng ở trong mộ) để “tượng trưng cho văn hóa Hán tộc”(24).
Về bức tượng đắp hình một con cọp, ông viết:“để khơi nhớ nền văn hóa cổ nước
Chu”(25).
Và ông kết luận: “Tháng 6 năm 1983 phát hiện
ngôi mộ, khánh thành bảo tàng năm 1988 . Trong 10 năm đã có 2 triệu lượt khách
thăm bảo tàng. Họ đến từ nước ngoài và trong nước và mọi người đều bở ngỡ
choáng ngợp trước kho tàng quý báu và nền văn hóa cổ đại của Trung Hoa. Không
gian hài hòa, kiến trúc đặc sắc, tiếp đón nồng hậu, ai cũng khen ngợi. Họ là:
các lãnh đạo nhà nước Trung Hoa, các nguyên thủ quốc gia, các vị khách quý được
mời. Bảo tàng trở thành một điểm tham quan cho mọi tầng lớp xã hội: đối với học
sinh đây là một phòng học thứ hai, để dạy lớp thực nghiệm… Bảo tàng này mở ra
cánh cửa nhìn vào 2000 năm lịch sử và văn hóa là một ví dụ tuyệt vời cho việc
khai thác và giữ gìn một ngôi mộ thời Hán kết nối việc bảo tồn và sử dụng trong
thời hiện đại” (26).
Đọc bài giới thiệu của ông Lin Qihua, độc giả
người Đức và Châu Âu sẽ có ấn tượng đây là một bảo tàng ngôi mộ của một nhà vua
Hán ở Quảng Đông Trung Quốc chứ không có một khái niệm gì về lịch sử và văn hóa
của một vương triều nhà Triệu là Đế vương của Nam Việt gần 100 năm trên một
vùng đất rộng lớn của nước Văn Lang xa xưa mà chủ nhân là dân Lạc Việt.
LỜI KẾT
Qua việc lăng mộ Triệu
Văn Đế ở Quảng Châu, chúng ta thấy luận điệu tuyên truyền của người Hán nhằm
chiếm đoạt văn hóa truyền thống người Việt. Chúng ta vốn tự hào là con rồng
cháu tiên, có bổn phận cấp bách ôn lại lịch sử cha ông và đòi lại sự công bằng
lịch sử của tổ tiên bằng cách xác định sự thật lịch sử rằng: Dân Lạc Việt chúng
ta từ phía Nam tiến lên phía Bắc và đã có mặt lâu đời trên đất Trung Hoa và để
lại một nền văn minh nông nghiệp xán lạn mà ngày nay dân Trung Hoa đang thừa hưởng. Cái gọi
là văn minh Trung Hoa ngày nay đều do các dân Lạc Việt sáng tạo trong đó có cả chữ Hán, tiếng nói, kinh Dịch, Tứ thư, Ngũ kinh và kỷ thuật (kỷ nghệ đúc đồng, sắt, thủy tinh,
làm giấy, mái nhà cong...) đến cả phong tục tập quán tín ngưỡng nhất là hệ tư
tưởng triết lý âm dương kinh dịch... cả nền minh triết Việt.
Đây là những lý do giải mã câu hỏi: “Tại sao dân Việt Nam là dân tộc duy nhất
không bị Hán hóa, đang lúc các dân tộc khác trong khối Bách Việt đều bị Hán
hóa”. Câu trả lời đơn giản là: “không hề có Hán hóa nòi giống của chúng ta” như lời nhà nghiên cứu Hà Văn Thùy khẳng định (27).
Câu chuyện dân gian trong tranh Đông Hồ (“Nòng nọc đứt đuôi”(28)) dụng ý nói rằng: dân tộc Trung Hoa hiện tại, đặc biệt ở miền Nam Hoa vốn là dòng dõi con cháu
Lạc Việt sẽ có ngày tìm về với
tổ tiên Việt một cách tự nguyện vì dòng máu Việt vẫn còn chảy trong con người
Trung Hoa ngày nay mà khoa học công nghiệ hiện đại đã công nhận qua xét nghiệm
ADN (29).
Bảo vật trong Lăng mộ Triệu Văn Đế là sự nối tiếp phát triển từ
Hùng Vương đến Âu Lạc và Nam Việt là đỉnh cao may mắn còn được giữ lại dưới
lòng đất suốt hơn 2000 năm để chúng ta và con cháu mai sau chiêm ngưỡng, tìm hiểu,
giải tỏa nhiều nghi vấn ẩn số lịch sử. Học giả Hoàng Xuân Hãn có lần nói: “Chúng ta phải tìm hiểu lịch sử cha ông dưới đất và
dưới nước”. Thật đúng khi mà chiến tranh, giặc ngoại xâm chủ yếu là người Hán trong 1000 năm Bắc thuộc, bão lụt, hỏa hoạn đã
tàn phá và cướp đi quá nhiều di tích lịch
sử cha ông thì những gì khảo cổ học khai quật được thật là vô giá nên người
Trung Hoa muốn chiếm đoạt để nhận bừa là của họ. Bổn phận chúng ta ngày nay là “Phục hồi kho tàng văn hóa của tổ tiên, lập nên tập
đại thành của văn hóa dân tộc Việt... tập trung trí lực viết lại cuốn sử chân
thực của tộc Việt” như nhà nghiên cứu Hà Văn Thùy tha thiết kêu gọi (30).
Long
Hải, ngày Giỗ tổ Hùng Vương, 2018.
TÀI
LIỆU THAM KHẢO
-
Bảo tàng lăng mộ Triệu Văn Đế,
- Nguồn:https://vi.wikipedia.org/wiki/Bảo_tàng_Lăng_mộ_Triệu_Văn_Đế
-
Đào
Duy Anh, 2005, Lịch sử cổ đại Việt Nam, Nxb.
Văn hóa thông tin, tr. 93-94
-
Hà Văn Thùy, 2006, Tìm lại cội
nguồn văn hóa Việt, Nxb. Văn học.
2017, Nhà nước xích quỷ - Từ huyền
thoại đến hiện thực, Nxb. Hội Nhà văn.
2015, Thủy tổ người Việt thực sự
ở đâu?, Nguồn: httpt://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/thuy-to-nguoi-Viet-thuc-su-o-dau.html.
2008, Hành trình tìm lại cội nguồn
- Nghiên cứu và đối thoại, Nxb. Văn học.
2017, Nhìn lại việc đánh giá Triệu
Đà và nước Nam Việt.
2016, Góp phần nhận thức lại lịch sử văn
hóa Việt, NXB
Hội Nhà văn
Nam Việt (趙國), Nguồn:http://zh.wikipedia.org/Nam-Việt.
-
Nguyễn Duy Chính, Lăng mộ Triệu
Văn Đế ở Quảng Châu, Nguồn: http://diendan.lyhocdongphuong.org.vn/chu-de/12963-phát-hiện-mộ-triệu-đà-nam-việt/
-
Nguyễn Xuân Phước, Bách Việt
trong lòng Đại Việt, Nguồn: https://bienxua.wordpress.com/2018/03/28/bach-viet-trong-long-dai-viet/
-
Nguyễn Xuân Quang, Những nét văn
hóa Bách Việt trong mộ Nam Việt Vương trong mộ Việt Vương, Quảng Châu, Trung Quốc,
Nguồn: https://bacsinguyenxuanquang.wordpress.com/2011/07/29/nhung-net-van-hoa-bach-viet-trong-mo-nam-viet-vuong-quang-chau/
-
Prüch M. (chủ biên), 1999, Schätze
für König Zhao Mo - das Grab von Nam Yue (tiếng Việt: Bảo vật vua Triệu Mộ - lăng mộ vua Nam Việt), Nxb. Umschau/Braus
Verlag, Frankfurt, Đức ngữ. Sách gồm 6 bài nghiên cứu về đề tài này.
-
Trần Đại Sỹ, 1995, Từ triết học
đến huyền thoại về nguồn gốc tộc Việt, trong Văn nghệ Tiền Phong, tr. 13-14 & 74-75.
-
Trịnh Quang Vũ, Mỹ thuật Đông Sơn trong lăng mộ Nam Việt
Văn Đế 2000 năm trước.
-
Trương Sỹ Hùng & Nguyễn Khắc Mai (đồng chủ biên), 2017, Nhà Triệu - mấy vấn đề lịch sử, Nxb. Hội
Nhà văn.
-
Trương Thái Du, 2004, Cổ sử Việt
Nam - Một cách tiếp cận vấn đề, Nxb. Lao động.
CHÚ
THÍCH
(1)
Prüch M. (chủ biên), 1999, tr. 25.
(2)
Trương Thái Du, 2006, tr. 110.
(3)
Văn hóa Nghệ An, số 247 (25.08.2017), tr. 32.
(4)
Laurer, V. trong Prüch M. , 1999, tr. 122.
(5)
Röllike, H. J. trong Prüch
M. , 1999, tr. 33.
(6)
Nickel, L. trong Prüch M. ,
1999, tr. 54.
(7)
Sách đã dẫn, tr. 64.
(8)
Nt
(9)
Sách đã dẫn, tr. 66.
(10)
Nt
(11)
Röllike, H. J. trong Prüch
M. , 1999, tr. 33.
(12)
Keller, A. C. trong Prüch M. , 1999, tr. 44.
(13)
Rawson, J. trong Prüch
M. , 1999, tr. 80.
(14)
Dewall, M. trong Prüch M. , 1999, tr. 80.
(15)
Höllman, T. O. trong Prüch M. , 1999, tr. 108.
(16)
Lauer, U. trong Prüch M. , 1999, tr. 122.
(17)
Lin Qihua, trong Prüch M. , 1999, tr. 25.
(18)
Nickel, L. trong Prüch M. ,
1999, tr. 25.
Xem Nguyễn Xuân Quang, Những nét văn hóa Bách Việt trong mộ Nam Việt
Vương trong mộ Việt Vương, Quảng Châu, Trung Quốc, Nguồn: https://bacsinguyenxuanquang.wordpress.com/2011/07/29/nhung-net-van-hoa-bach-viet-trong-mo-nam-viet-vuong-quang-chau/
(19)
Nguyễn Xuân Quang có ghi rõ: 36 đỉnh đồng, 9 thạp đồng, 9 bình đồng,
nhạc khí gồm 14 thanh, một bộ chuông gồm 14 cái,…
(20)
Lin Qihua, trong Prüch M. , 1999, tr. 25.
(21)
Trịnh Quang Vũ, Mỹ thuật Đông Sơn trong lăng mộ
Nam Việt Văn Đế (2000 năm trước), Nguồn: http://hodovietnam.vn/index.php?option=com_content&task=view&id=3260&Itemid=32
(22)
Lin Qihua, trong Prüch M. , 1999, tr. 25.
(23)
nt, tr. 30.
(24)
nt, tr, 32
(25)
nt
(26)
nt
(27)
Hà Văn Thùy, 2008, Hành trình tìm lại cội nguồn - Nghiên cứu và đối
thoại, Nxb. Văn học, tr. 191.Chuyện kể rằng: Bọn nòng nọc mới nở sống dưới nước
tưởng cha mình là con cá trê nên theo cha. Khi nòng nọc đứt đuôi nhảy lên bờ
thì theo mẹ là con cóc.
(28)
Hà Văn Thùy, 2017, Nhìn lại việc đánh giá Triệu Đà và nước Nam Việt.
(29)
Hà Văn Thùy, 2017, Nhà nước xích quỷ - Từ huyền thoại đến hiện thực,
Nxb. Hội Nhà văn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét