TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU VĂN HÓA MINH TRIẾT
Tọa đàm khoa học kỷ niệm 110 năm ngày sinh
(1909 - 2019)
Hà Nội ngày 19 tháng 9 năm 2019
Ban giám đốc trung
tâm văn hóa Minh Triết
cùng một số cựu
sinh viên và thân hữu của giáo sư
Nguyễn Mạnh Tường,
họp mặt tưởng niệm
nhân dịp kỷ niệm 22 năm ngày mất (1997 - 2019)
TÍNH
KHOA HỌC
TRONG
LÝ LUẬN GIÁO DỤC CHÂU ÂU
CỦA
GIÁO SƯ NGUYỄN MẠNH TƯỜNG
Pgsts.
NGUYỄN TRƯỜNG LỊCH
Cựu
sinh viên khóa I (1956-1959)
Khoa Ngữ Văn, ĐH Tổng Hợp- Hà Nội
Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường (1909-1997) là
người Việt đầu tiên và duy nhất đỗ hai bằng Tiến
sĩ Văn học và Luật học tại đại học Sorbonne – Paris ở tuổi 22. Và mãi cho
đến nay, trên đất Pháp – kể cả người
Pháp - cũng chưa có ai vượt qua được đỉnh cao ấy! Ông cũng là
người Việt đầu tiên được chính quyền bảo hộ Pháp phong học hàm giáo sư đại học
Đông Dương.
Vốn quan tâm đến việc đào tạo các thế hệ
tương lai của đất nước, ông đã viết cuốn Lý
luận giáo dục châu Âu (Nxb Giáo dục.HN.1995-450 tr) nhằm giới thiệu -
thuyết minh bước phát triển nền giáo dục châu Âu, thành tựu vĩ đại của tiến
trình phát triển nền văn minh nhân loại, mà ở
nước ta bao năm qua chưa được
nghiên cứu đầy đủ. Có lẽ những ai chịu trách nhiệm hoạch định chính sách giáo
dục hiện đại của đất nước nên tìm đọc, tuy cuốn sách đã ra mắt khá lâu…
Nét nổi bật đầu tiên của công trình nghiên
cứu này là tính hệ thống chặt chẽ trong biện luận, với điểm nhìn biện chứng
lịch sử đặt nền giáo dục gắn bó mật thiết với quá trình phát triển xã hội, chính
trị, kinh tế, tôn giáo… của châu Âu thời
bấy giờ.
Khảo sát về nền giáo dục châu Âu thế kỷ
XVI - ở chương III- khi đề cập đến Vấn đề con người mới - tác giả đã làm nổi
bật:
“Thời
đại Phục hưng mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử châu Âu. Dĩ nhiên cái mới
không xuất hiện toàn bộ trong một khoảnh khắc nào đó như một phép huyền bí hay một trò ảo thuật. Nó thoát thai từ cái
cũ,trong một quá trình lâu dài với cái cũ. Nó có bước tiến, bước lùi lại, kế
tiếp một bước tiến mới. Thế kỷ XVI là một giai đoạn đầy mâu thuẫn, trong đó
những xu hướng trái ngược xung đột nhau kịch liệt…” (NMT / tr 56)
Tuy viết về thời đại Phục hưng đã cách
xa thời nay hơn bốn thế kỷ, nhưng tác giả vẫn chú ý khảo sát theo quan điểm
lịch sử. Dù đứng ở góc độ nào, mỗi khi bàn về giáo dục thì bất kỳ thời đại nào
cũng đều lấy.Con người là đối tượng trung tâm. Vì con người vốn là tổng hòa của
mọi quan hệ xã hội, không tách rời với cộng đồng, với thiên nhiên, càng không
thể tách rời phong tục tập quán, nếp sống và đạo đức của xã hội thời đó.
Đẻ sáng tỏ vấn đề giáo dục con người mới thời Phục hưng, tác giả
chú
ý
làm nổi bật các luận điểm của Rabelais (1494- 1553) - nhà giáo dục vừa là nhà
văn Pháp lỗi lạc từng viết về hình tượng Con
người mới Gargantua trong tiểu thuyết mang tên Gargantua và Pantagruel
(1532-64) – “ Rabelais đáp ứng được yêu cầu của thời đại và của giai cấp tư sản
xây dựng con người mới, một con người toàn diện , có đầu óc thiết thực và thực
tiễn, đủ khả năng và điều kiện không
những sống trong xã hội mới, mà còn thúc đẩy xã hội ấy tiến lên”….
“ Vinh dự của Rabelais là đã có mơ ước …và
hình dung được một xã hội trong sạch,
trong đó con người là mục đích cuối cùng và cao quý của xã hội và cuộc đời của
mỗi người là lao động và thỏa mãn các nhu cầu cao thượng nhất của loài người”.
(NMT-tr. 90).
Phân tích quan điểm giáo dục của nhà
phục hưng Pháp, tác giả đánh giá rõ ràng Rabelais đã “ nhìn xa hơn thời đại ông” … “ Nội dung giáo dục, ngoài trí dục còn
có đức dục. Đức dục đóng vai trò hết sức quan trọng trong hệ thống giáo dục của
Rabelais. Trí dục nhằm biến con người thành một nhà bác học, kiến thức thâm
uyên như một vực thẳm. Nhưng chỉ có kiến thức thôi, nhất điịnh không thể nào đủ
được, vì “ kiến thức mà không có lương tâm thì chỉ tàn phá tâm trí, đẩy tâm trí
vào chỗ tiêu vong”.
Ngược lại kiến thức không thể nào truyền
nhập vào một tâm trí tràn đầy những “ tả khuynh”, do đó không có tác dụng làm
cho con người tinh khôn thêm được phần nào. (…)
Trí dục sẽ vô dụng nếu không được đức dục chỉ đường và soi sáng tạo điều
kiện cho trí dục phát huy hiệu lực”.(NMT-tr.73)
Qua lời bình trên, người đọc thấy rõ tác
giả đã có điểm nhìn khách quan và đặt giáo dục trong mối tương quan biện chứng
của thời phục hưng nhằm mục đích học tập những kinh nghiệm quý từ quá khứ hướng
tới việc góp phần phát triển nền giáo dục hiện đại của nước nhà.
Những luận điểm trên mang tính lịch sử
còn có những nét khác biệt so với yêu cầu của nền giáo dục khoa học kỹ thuật
của thời đại mới. Song vè cơ bản vẫn đậm nét tương đồng là ở chỗ nền giáo dục
của mọi thời đại bao giờ cũng xoay quanh ván đề làm sao cho Con Người được hưởng cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn...
Tiếp tục điểm nhìn khoa học như vậy ,
Giáo sư Nguyễn khảo sát nền giáo dục châu Âu thế kỷ XVIII, đặc biệt giới thiệu
quan điểm tiến bộ của nhà văn hóa lớn Jean Jacques Rousseau (1712- 1778) Nhà
giáo dục vĩ đại của nước Pháp khẳng định: - ”
Mục tiêu giáo dục là huấn luyện Con người”(former les hommes) Giáo dục là nghệ thuật xây dựng con người.
giáo dục đạt mục tiêu ấy bằng cách cung cấp cho con người cái mà mới sinh ra
con người không có, nhưng lại rất cần khi lớn lên. Sinh ra trong xã hội, từ lúc
lọt lòng mẹ con người đã sa vào vòng nô lệ, vì thế nên mục tiêu giáo dục là
khôi phục lại tự do cho con người xây dựng : -con người tự do. Tự do là gì”
“Người
thực sự tự do chỉ muốn cái gì mình có thể đạt được và làm cái gì mình muốn. Đó là
nguyên lý cơ bản theo tôi, nay chỉ cần
vận dụng nó vào tuổi trẻ; các nguyên tắc giáo dục xuất phát từ đó” (J.J Rousseau).Muốn trở thành con người tự do như thế,
cần phải có lý trí. Rousseau còn nhấn mạnh: “ Nếu nền giáo dục xây dựng được một người có ly trí thì đạt được một
kiệt tác “
Trên cơ sở dó, Gs. Nguyễn bàn rộng thêm: “ Lý trí là lẽ phải, dụng cụ
phổ biến nhất của loài người (…) Có lý trí sẽ hiểu tự do, từ đó tiến tới hạnh
phúc, mục đích cuối cùng và cao nhất của loài người….Hạnh phúc ở chỗ mình tự do
và tự chủ. (…) Tóm lại giáo dục có nhiệm vụ xây dựng con người có lý trí, con người tự do, tự chủ, sinh sống trong một
hạnh phúc cao qúy đòi hỏi “ đấu tranh bản
thân, thắng bản thân, hy sinh lợi ích riêng của mình cho lợi ích chung”(..) Yêu
nhân loại là yêu công lý”. Rousseau nhấn
mạnh “ Tất cả cái gì ta không có khi sinh ra đời và ta cần dùng khi ta trưởng
thành đều là do giáo dục cấp cho ta cả”. Bắt nguồn từ các luận điểm của Rousseau,
tác giả mong muốn vận dụng vào mục tiêu
giáo dục thời hiện đại; “Mục tiêu giáo dục là hạnh phúc và hạnh phúc
cũng biến chuyển theo từng lứa tuổi, mỗi tuổi phải hưởng hạnh phúc trực tiếp,
tức khắc.Hạnh phúc là quyền lợi thiêng liêng của con người không thể nào biến
nó thành lời hứa suông thuộc phạm vi tương lai (…) Hạnh phúc chỉ có thể thực hiện được
trong cuộc đấu tranh giữa lý trí và dục vọng. nhằm làm dục vọng thích nghi với
khả năng và số phận, khiến con người tự do và tự chủ; đồng thời đòi hói nhất
trí và lợi ích riêng tư và lợi ích chung, sự
hy sinh cá nhân cho tập thể. Quan niệm như vậy, hạnh phúc là biểu hiện
cao quý nhất của thiên nhiên, con người, mà một nền giáo dục hoàn toàn có nhiệm
vụ phát hiện và phát huy” (NMT-tr439)
Không tách rời mục tiêu, trong phần bàn
về phương pháp giáo dục,, với điểm
nhìn vạn vật tươg quan, Rousseau chi rõ:
“ Trong mọi tuổi đời bao
giờ cũng phải là mình và đừng đấu
tranh chống lại thiên nhiên“.(Rousseau-“Em phải làm người”. Cũng từ đó Gs Nguyễn mở rộng: “ Thiên
nhiên chủ yếu là con người thiên nhiên, nghĩa là con người còn duy trì được
trong bản thân các đức tính trong sạch cao qúy của trạng thái thiên nhiên không
bị các ảnh hưởng tai hại của xã hội làm hoen ố hư hỏng đi ”. Tác giả còn khảo sát rộng thêm về lĩnh
vực “ Thâm nhập thực tế, học nhưng
phải hành, và hành lúc này là đi sâu vào thực tế xã hội, tìm hiểu và cọ xát với
mọi người; - con người bản chất thì tốt, nhưng bị xã hội làm hư hỏng, do đó cần
kính nể cá nhân từng người(..) Dĩ nhiên căn bản là tìm hiểu con người cùng thời, nhưng cũng nên tìm hiểu con người muôn
thuở qua môn sử. Các nhân vật thường đeo mặt nạ trước quần chúng, phải phát
hiện bản chất thiên nhiên từ họ qua những chi tiết trong tác phong và sinh hoạt của họ ”.(NMT-tr.436)
Tác giả đã rất có lý khi thẳng thắn
nhìn nhận phẩm chất của mỗi con người phải căn cứ vào thực tế hành động của họ,
chứ không dựa vào những lời nói bề ngoài, bởi lẽ môi trường sống thường làm méo
mó “ nhân chi sơ, tính bản thiện” của mỗi cá thể trên đời. Khảo sát về quá
trình phát triển giáo dục từ thế kỷ XVI-XVII đến XVIII, điểm nhìn của tác giả
mang đậm nét biện chứng lịch sử nhằm soi sáng các hình thái:: “ Bản chất các lý
luận giáo dục dưới các hình vẻ khác nhau của nó là gì?...Tất cả các lý luận
giáo dục trong mỗi thế kỷ nêu lên một lý tưởng con người mới: - nhà nhân văn chủ nghĩa trong thế kỷ
XVI:- Người lịch thiệp (honnette homme-NM
) trong thế kỷ XVIi; Triết gia trong
thế kỷ XVIII. Nhưng bản chất tât cả lý luận đó là chung : nó cụ thể hóa mơ ước
và yêu cầu của giai cấp trong từng giai đoạn , nó tập trung vào hình tượng một
con người mẫu mực, những mục tiêu chiến thuật mà giai cấp tư sản hướng tới
trong qúa trình tiến
lên của nó”.(NMT-tr.445)
Nhìn một cách khái quát tác giả cuốn sách
–với cách nhìn khoa học- đã khẳng định vai trò của Lý luận giáo dục châu Âu
trong quá trình vận động của giai cấp tư sản đang tiến lên thực hiện vai trò
cách mạng của chính nó nhằm lật đổ chế độ và hệ ý thức phong kiến đang ngự trị
xã hội châu Âu từ bao thế kỷ, mà không dễ gì vượt qua những chướng ngại đó để
bước sang một giai đoạn tiến bộ hơn trước. Kết thúc công trình nghiên cứu, Gs.
Nguyễn đã vận dụng luận điểm biện chứng
quan trọng của nhà tư tưởng lỗi lạc Các Mác đã trình bày trong bản tham luận
của Người, đọc tại Đại hội Quốc tế Cộng
sản làn thứ nhất ( 10-8-1869) để nhận biết rõ ràng hơn vai trò quan
trọng của giáo dục qua ba thế kỷ trước:
“ Một mặt, muốn sáng chế một hệ thống giáo dục
đúng đắn cần thiết phải có sự đổi thay các điều kiện xã hội; và mặt khác, muốn
có thể đổi thay các điều kiện xã hội, cần thiết phải có một hệ thống giáo dục
đúng đắn”.
GIÁO SƯ NGUYỄN MẠNH TƯỜNG
NHỮNG ĐIỀU CẢM
NHẬN
TRẦN HINH
Khoa Văn học, trường ĐHKHXH
& NV Tôi không có may mắn được là học sinh, cũng chưa một lần diện kiến giáo sư Nguyễn Mạnh Tường, nhưng ngay từ khi chính thức là thành viên của bộ môn Văn học nước ngoài, khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp, Hà Nội (tôi nhớ vào khoảng tháng 9 năm 1976, thời điểm Văn học nước ngoài còn gồm cả ba nhóm Nga, Phương Tây và Trung Quốc), tên tuổi và những giai thoại về ông, với tôi, luôn là một trong những ký ức hấp dẫn và ấn tượng nhất. Ấn tượng trước tiên với tôi, một “kẻ hậu sinh” trong lĩnh vực giảng dạy và nghiên cứu văn học nước ngoài, có lẽ trước tiên ở tài năng đáng nể của ông: ngay từ năm 23 tuổi, Nguyễn Mạnh Tường đã đậu tới hai bằng tiến sĩ Pháp (mà là tiến sĩ quốc gia - docteur d’État hẳn hoi, chứ không phải tiến sĩ mới - docteur nouveau ngày nay, mà nhiều người có thể đạt được). Thành tích của ông “chói sáng” đến mức khiến cho cả những người Pháp lúc bấy giờ cũng phải ngạc nhiên. Clément Vautel, một nhà bình luận bảo thủ và dân tộc chủ nghĩa nổi tiếng thời ấy đã từng có những “lời cảnh báo” trên một tờ báo Pháp về hiện tượng Nguyễn Mạnh Tường như sau: “Người Pháp nên cẩn thận: để người Việt Nam được học và học giỏi như vậy, liệu về nước họ có chịu ngồi yên không?”. Ấn tượng thứ hai về giáo sư Nguyễn Mạnh Tường thuộc về một nét cá tính, mà suy cho cùng thường chỉ có ở những người giàu lòng tự tin và bản lĩnh, có may mắn được hít thở nền giáo dục dân chủ phương Tây, thấm nhuần tinh thần duy lý của Descartes , nhà triết học Pháp thế kỷ XVII (“Tôi tư duy vậy thì tôi tồn tại” - Je pense donc je suis). Từng có một thời gian rất dài, chúng tôi những học trò khoa Văn thường lan truyền với nhau giai thoại về một ông thầy “tự kiêu”. Một cựu học trò của ông, giáo sư Trần Thanh Đạm, đã từng kể câu chuyện thú vị về “ông thầy tự kiêu” ấy của mình như sau: “Hồi dạy chúng tôi ở Thiệu Hóa, Thanh Hóa thỉnh thoảng thầy nói: Tôi thật sự là một cái quái thai. Các anh nghĩ có phải cái quái thai không?. Học trò đang ngơ ngác, thầy bảo: Ai như tôi, 23 thuổi mà đậu hai bằng tiến sĩ. Thầy tự hào mà nói ra như thế, học trò thì bảo: Thầy kiêu ngạo một cách thật thà, hồn nhiên”. Đại loại là như vậy, những câu chuyện về giáo sư Nguyễn Mạnh Tường, cũng như của không ít những giáo sư nổi tiếng khác một thời của Đại học Văn khoa Hà Nội đã từng làm cho nhiều thế hệ học trò chúng tôi suốt nhiều năm sau vẫn không hết tự hào. Quả thật, sẽ còn lâu lắm, dù khoa học có đi lên bằng “tàu vũ trụ”, tôi vẫn tin rằng, chúng ta khó có thể tìm lại được một đội ngũ những nhà khoa học xã hội và nhân văn tài năng và ấn tượng như thế. Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường là một trong những vị giáo sư ấn tượng hiếm hoi đó.
Nguyễn Mạnh Tường
sinh ngày 16 tháng 9 năm 1909 trong một gia đình công chức phố Hàng Đào, thành
phố Hà Nội. Thực ra, quê chính của ông thuộc làng Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm. Một
cách ngắn gọn ta có thể biết những trang tiểu sử ngắn gọn của ông như thế này: Hồi nhỏ, ông học trường Paul
Bert, sau tiếp tục học trường Albert Sarraul, năm 26 tuổi ông đỗ tú tài triết
học hạng ưu, nhờ đó đã nhận được học bổng du học tại Pháp. Từ năm 1927 đến
1933, bằng sự thông minh chói sáng
của mình, Nguyễn Mạnh Tường đã có một cuộc thăng tiến kỳ diệu: ông lần lượt
vượt qua các chương trinh trình cử nhân luật và văn chương, rồi sau đó đậu luôn
hai bằng tiến sĩ thuộc hai lĩnh vực này. Tất nhiên, sự “thăng tiến kỳ diệu” của
Nguyễn Mạnh Tường ngoài sự thông mình bẩm sinh, còn có một sự khổ học thật sự.
Chính ông đã bộc bạch: “Từ lớp 6 cho tới Tú tài, tôi có thói quen mỗi tuần đọc
2 cuốn tiểu thuyết Tây […]; và nhất là do cật lực làm việc: suốt 5 năm dài, mỗi
sáng tôi thức dậy từ 4 giờ, học và viết tới 8 giờ thì đi lớp, chiều lại học tới
khuya”. Tháng 5 năm 1932 ông trở về nước, nhưng sau đó quay trở lại Pháp, du
lịch và nghiên cứu tại một số quốc gia châu Âu (Tây Ban Nha, Ý, Ai Cập, Thổ Nhĩ
Kì, Hy lạp). Đến 1936, ông mới chính thức trở về Việt Nam và tham gia nhiều
công việc khác nhau: được cử giảng dạy khoa Văn chương phương Tây, ngay sau khi
Đại học Văn khoa được thành lập (1945); năm 1946, được chủ tịch Hồ Chí Minh cử
vào phái đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa dự Hội nghị trù bị Đà Lạt.
Cùng năm, khi đang tham dự một phiên tòa tại Hải Phòng, kháng chiến toàn quốc
bùng nổ, ngay lập tức ông gia nhập đoàn quân kháng chiến: lên chiến khu Việt
Bắc, vào liên khu III và IV, được cử làm luật sư tại các Tòa án quân sự, Tòa án
Đại hình và thành viên Ban giám đốc Đại học dự bị, khi đó ở Thanh Hóa và Nghệ
An. Mặc dù vậy, điều không may mắn với giáo sư Nguyễn Mạnh Tường, có lẽ do hoàn
cảnh đất nước kháng chiến khó khăn bộn bề, những công việc dành cho một trí
thức được đào tạo bài bản như ông, để ông có thể cống hiến, thật sự không
nhiều. Thêm nữa, con đường sự nghiệp của Nguyễn Mạnh Tường tại Đại học Văn khoa
thời điểm ấy lại rất ngắn, chỉ trong khoảng 3 năm, từ 1954 đến 1957 với vai trò
giám đốc khoa Luật và phó giám đốc Văn khoa Sư phạm. Khoảng tháng 10 năm 1957,
do một “tai nạn” nghề nghiệp, ông vĩnh viễn rời bục giảng đại học. Bản thân ông
cũng không ngờ rằng “tai nạn” bất ngờ ấy đã khiến cuộc đời của ông bước sang
một ngã rẽ khác hẳn. Ông buộc phải “gác lại” vô thời hạn hai công việc vô cùng yêu
thích từ hồi còn trẻ của mình: nghiên cứu giảng dạy văn chương và thực hành
pháp luật. Với một người trí thức, điều đó chẳng khác nào một cuộc “lưu đày”…
Phải tới tận năm
1994, sau một thời gian dài “đứt đoạn”, Nguyễn Mạnh Tường mới có điều kiện quay
trở lại công việc chuyên môn quen thuộc của mình: tham gia biên soạn xuất bản
một số công trình tài liệu thuộc cả hai lĩnh vực văn chương và giáo dục. Ba
cuốn sách Lý luận giáo dục châu Âu thế kỉ
XVI, XVII, XVIII, từ Erasme đến Rouseau (NXB GD, 1994), Eschyle và bi kịch cổ đại Hy Lạp (NXB GD, 1994), Viergile và anh hùng ca La Tinh (NXB
KHXH, 1996) có thể được coi là khát vọng hồi sinh “giấc mơ văn chương” của
Nguyễn Mạnh Tường. Thực ra, nếu nhìn toàn diện hơn, sự nghiệp của Nguyễn Mạnh
Tường gồm 18 đầu sách, báo, bao gồm cả dịch thuật, nghiên cứu, sáng tác bằng
hai ngôn ngữ Việt và Pháp thuộc các lĩnh vực xã hội, văn học, luật học và giáo
dục. Mảng sách viết bằng tiếng Pháp của ông đa phần đều chưa được in ra, ngay
cả tại Pháp. Trong số những cuốn sách chưa được in đó, theo tôi biết, còn có
tập bài giảng in rô nê ô Văn hóa và văn
học Phục hưng phương Tây (đã từng được lưu giữ tại Phòng tư liệu khoa Ngữ
văn, Đại học Tổng hợp Hà Nội), vốn được sử dụng làm giáo trình giảng dạy chính
thức tại khoa từ những ngày đầu. Rất tiếc, tập tài liệu này cho đến nay vẫn chỉ
tồn tại ở dạng lưu hành nội bộ…
Từ một tiểu sử và sự nghiệp có phần “đứt
đoạn” như thế, cùng với những nhận xét chưa bao giờ thống nhất về Nguyễn Mạnh
Tường, để dựng lại một bức chân dung đầy đủ và chính xác về ông, với một kẻ hậu
sinh như tôi quả là rất khó. Cái khó trước tiên đến từ nguyên do, một thời gian
dài, mặc dù không có bất cứ sự cấm đoán chính thức nào, nhưng những phát ngôn
chân thực về ông lại rất ít cơ hội được dăng tải công khai để nhiều người cùng
biết. Thêm lý do nữa, do nước ta một thời gian dài có chiến tranh, tất cả mọi
nguồn lực đều tập trung cho công cuộc thống nhất đất nước, việc “khôi phục”
danh dự cho một người trí thức như ông khó được ưu tiên. Rồi lâu dần nó bị rơi
vào quên lãng. Đến khi người ta kịp nhớ ra thì đã quá muộn màng. Chuyện của ông
bỗng nhiên trở thành “dĩ vãng”. Rồi còn có lý do khác nữa, Nguyễn Mạnh Tường
vốn là một ông thầy “cá tính”, trong suốt thời gian “gặp nạn” và cả sau này,
ông không bao giờ tỏ ra “hối hận” để mong được “giảm án”. Mối quan hệ giữa ông
với bạn bè và học trò cứ thế vắng dần. Cả những người bạn tốt cũng “ngại” gặp
gỡ ông dần. Trong khi không ít kẻ bên ngoài vốn chẳng “yêu” gì ông, nhưng vẫn
lợi dụng “hình ảnh” của Nguyễn Mạnh Tường “khuấy tung” nguồn dư luận không đáng
có nhằm vào những mưu đồ thiếu “trong sáng”.
Thật may mắn, tình cờ một lần nhân kỷ niệm
35 năm thành lập khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp, Hà Nội (17/11/1991), giáo sư
đương nhiệm chủ nhiệm khoa thời đó là Nguyễn Kim Đính đã có sáng kiến đề xuất
mời “thầy Nguyễn Mạnh Tường” về dự và phát biểu ý kiến. PGS Phạm Quang Long hồi
ấy là phó khoa, kể rằng, chính ông đã trực tiếp đến tận nhà thầy Nguyễn Mạnh
Tường tại 34, phố Tăng Bạt Hổ, “trịnh trọng” đưa ông tới Hội trường 17, Lê
Thánh Tông bằng chiếc xe máy “cà tàng” của mình. Nhiều thầy cô giáo và sinh
viên khoa Ngữ văn ngày ấy bỗng nhiên bất ngờ được diện kiến hình ảnh “ông thầy
của hai bằng tiến sĩ” nổi tiếng một thời của Văn khoa Tổng hợp. Giáo sư Nguyễn
Kim Đính thì nhắc lại rằng, khi ra đón thầy Tường bước lên từ bậc tam cấp phía
cửa chính Hội trường, ông đã nhìn thấy ông thầy năm xưa của mình run run, xúc
động. Thầy nói: “Đã hơn 30 năm nay tôi mới được quay lại trường, lại khoa của
mình”. Rõ ràng là không ai khác mà chính khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp, cái
nôi ban đầu của giáo sư Nguyễn Mạnh Tường đã làm một “cuộc chiêu tuyết” kỳ diệu
cho ông. Bởi lẽ cho đến tận lúc này theo tôi được biết, danh dự của ông từ tận
ngày ấy vẫn chẳng có tổ chức chính thức nào đứng ra “đính chính”. Trong khi, sự
kiện lịch sử mà vì nó Nguyễn Mạnh Tường gặp “tai nạn” thì về sau đã chính thức
được công nhận là “sai lầm”. Bản thân Nguyễn Mạnh Tường, dù có tới hai bằng
tiến sĩ, trong đó có tiến sĩ Luật, trái lại không một lần được công khai tự bào
chữa cho mình[1]. Đôi điều
nói về ông công bằng và khách quan lúc này, nhân 110 năm ngày sinh, là thật sự
cần thiết.
Trước tiên, tôi
xin được khẳng định: cho dù ý kiến về Nguyễn Mạnh Tường từ trước tới nay có
khác nhau thế nào, và dù bản thân ông từng để lại những phát ngôn “gai góc khó
nghe” (qua những trang viết đã và chưa được công bố), nhưng về mặt nhân cách, ông hoàn toàn là con
người chân thành, trung thực và ngay
thẳng. Đã hơn nửa thế kỷ kể từ ngày một “tai nạn nghề nghiệp” ngẫu nhiên
giáng xuống đầu, mọi ước mơ, sự nghiệp của vị giáo sư tài hoa bỗng bất ngờ lở
dở. Tất cả cũng chỉ xuất phát từ đức tính ngay thẳng, trung thực vốn có của
mình. Do trong đời sống riêng tư và cá tính có phần “gai góc”, lại từng được
đào tạo trong môi trường giáo dục cởi mở phương Tây, những “phản biện” xã hội
thẳng thắn của Nguyễn Mạnh Tường không dễ dàng được chấp nhận ở nước ta thời
ấy. Điều đó hoàn toàn dễ hiểu. Thực ra, bản thân ông là một người yêu nước,
thiết tha với sự nghiệp phát triển chung của dân tộc. Không phải chỉ đến bây
giờ, khi mọi sự thật về ông đã dần được sáng tỏ, mà ngay cả khi “sự thật và
bóng tối” quanh ông còn chưa thật rõ ràng, tình cảm, tư tưởng của Nguyễn Mạnh Tường vẫn luôn thẳng ngay,
minh định. Bản thân ông bao giờ cũng mong muốn những điều tốt đẹp cho dân, cho
nước. Báo chí, dư luận cả phía “yêu ông” và “ghét ông” đều gặp gỡ nhau ở vấn đề
này. Mặc dù từng có thời gian dài chịu đựng “sự bất công, ghẻ lạnh” không đáng
có, những năm cuối đời, khi có điều kiện được tự do bày tỏ, Nguyễn Mạnh Tường
không bao giờ làm trái lý tưởng đặt ra
từ thời trẻ của mình. Để kiểm chứng điều này, chúng ta hoàn toàn có thể tham
khảo một số bài viết gần đây về chuyến trở lại nước Pháp những năm cuối đời hồi
tháng 12 năm 1987, của ông. Trong một cuộc gặp gỡ, giao lưu với một số bạn bè,
trí thức ở Pháp, một số phóng viên báo chí ở đây đã bất ngờ “tấn công” ông:
“Thưa ngài, ngài thấy chủ nghĩa cộng sản bây giờ thế nào?”. Nguyễn Mạnh Tường
bình tĩnh trả lời: “Trước hết các ông đừng lẫn lộn chủ nghĩa cộng sản với những
người đã thực hiện nó”. Hỏi tiếp: “Vậy ngài thấy các lãnh tụ cộng sản thế
nào?”. Vị “giáo sư của hai bằng tiến sĩ” vẫn sáng suốt trả lời: “Cũng như vậy,
các ông chớ xếp chung các lãnh tụ cộng sản vào một gói. Làm sao có thể đặt
ngang hàng Ceaucescu với Hồ Chí Minh. Các ông đều biết cụ Hồ Chí Minh khi chết
vẫn chỉ có bộ quần áo kaki đã sờn và đôi dép cao su đã vẹt gót”[2]. Về một số sự kiện “dân chủ” diễn ra ở một số
nước Đông Âu lúc bấy giờ, ý muốn liên hệ với Việt Nam, Nguyễn Mạnh Tường kiên
quyết thẳng thắn: “Tôi là một luật sư quen bào chữa, chứ không phải một công tố
viên, quen lên án. Hơn nữa, ngụ ngôn Pháp có câu: Cú đá của con lừa (Le coup de pied de l’âne) để nói về những kẻ hèn
hạ thừa cơ người khác gặp khó khăn mà lợi dụng. Các ông đừng ép tôi làm con lừa
ngu ngốc ấy”. Một câu chuyện khác, biết thời gian này Nguyễn Mạnh Tường thực sự
có những khó khăn trong đời sống (cả vật chất lẫn tinh thần), một số người tỏ ý
muốn ông ở lại nước Pháp. Với khí chất của một sĩ phu, ông cũng nhất quyết trả
lời: “Tôi là người trí thức Việt Nam,
tôi có lòng tự trọng của mình. Tôi không thể vì miếng cơn manh áo mà bỏ đất
nước nghèo ra đi” (dẫn theo Kiều Mai Sơn, Nguyễn
Mạnh Tường – Người luật sư yêu nước: Lòng tự trọng của người trí thức). Nhà
sử học Pháp George Boudarel trong một bài viết về ông đã khẳng định không hề
sai rằng: “Dù hết sức ngưỡng mộ Paris và nước Pháp (khó có thể làm hơn), nhưng
tới giờ phút quyết định, Nguyễn Mạnh Tường trong sâu thẳm của tâm hồn, vẫn là
người Việt. Dường như ông nghĩ, mình chỉ trung thành với những lý tưởng hun đúc
ở Paris: độc lập, tự do, nhân quyền và dân quyền. Năm 1945, cùng toàn bộ thành
phần ưu tú của dân tộc, ông đi theo chính phủ Hồ Chí Minh”. Những năm cuối đời,
khi vấn đề Nguyễn Mạnh Tường được công khai nhắc lại, cũng từng có kẻ xấu cố ý
“đào bới” một vài trang viết tự truyện có tính chất “phản biện” của ông để
khẳng định “những hình phạt” dành cho ông và một số trí thức thời ấy là đúng.
Bản thân tôi cũng nhận thấy, quả có một số điều, vì “bất bình” và không “cam
chịu”,một vị trí thức cương trực và giàu bản lĩnh như Nguyễn Mạnh Tường buộc
phải lên tiếng, thật khó mà khá được. Tất cả lại cũng lại vì sự thẳng thắn,
khảng khái dường như đã hòa tan trong máu và huyết quản của người trí thức.
Những “va dập” đó đã gây tổn hại cho hình ảnh cá nhân của ông, đã đành, nó còn
làm tổn hại đến cả nền giáo dục và khoa học trong nước. Cả hai ước mơ giảng dạy
văn chương và hành nghề luật sư trên chính đất nước mình của “ông thầy có hai
bằng tiến sĩ” vì thế đã không có cơ thực hiện.
Ở một phương diện
khác, “nỗi đau” của nhà trí thức Nguyễn Mạnh Tường, đó là sự dang dở trong
chuyên môn, sự nghiệp. Với ông, đó đó là “nỗi đau” lớn nhất. Bởi lẽ suy cho
cùng, ước mơ duy nhất khi trở về nước của ông chỉ là để làm chuyên môn: giảng
dạy văn chương để truyền giảng cái đẹp cho mọi người; làm nghề luật sư để thực
thi công lý. Thật tiếc, những mộng ước ấy của Nguyễn Mạnh Tường đã không thành,
chính xác hơn, nó có quá nhiều dang dở. Kể từ sau khi trở về nước, do hoàn cảnh
chiến tranh, công việc thường xuyên bị gián đoạn, phần lớn các công trình, sáng
tác của Nguyễn Mạnh Tường bằng tiếng Pháp không có điều kiện được dịch và in
ra. Những gì chúng ta, những người Việt đương thời và hậu thế có cơ hội tiếp
xúc chỉ gồm 4 đầu sách, trong đó 3 cuốn được xuất bản tại Việt Nam (bằng tiếng
Việt) từ khoảng năm 1994 đến 1996, một cuốn bằng tiếng Pháp nhưng chưa được
dịch và in ở Việt Nam (L’Annam dans la
littérature francaise, Jules Boissière). Chừng ấy chưa đủ để đánh giá hết
sự đóng góp của giáo sư Nguyễn Mạnh Tường cho nền khoa học nước nhà. Thêm nữa,
“kho tàng trí tuệ” của vị giáo sư hai bằng tiến sĩ lại “bị phân tán”, mở rộng
sang quá nhiều lĩnh vực: văn chương và luật học, triết học và giáo dục, khảo
cứu và sáng tác, biên soạn và dịch thuật…, nên rất khó đạt đến độ chuyên sâu.
Do không hiểu nhiều về mảng luật học, tôi xin không được “lạm bàn”. Còn nói
riêng về văn học, sở trường của Nguyễn Mạnh Tường chính là mảng văn học Pháp,
Hy Lạp và La Mã. Ở cả ba mảng văn học này, Nguyễn Mạnh Tường đã có sách được in
ra, dù chưa thể coi là xuất sắc. Từ thực tế ấy, việc đánh giá về ông cả ở hai
khuynh hướng đề cao đến mức “siêu phàm” lẫn “phủ nhận sạch trơn”, tôi cho rằng
đều thiếu chính xác và công bằng. Đúng là ở thời điểm nền đại học Việt Nam còn
rất ít thành tựu và thiếu kinh nghiệm (thập niên 40 của thế kỉ trước), một tài
năng được đào tạo bài bản như Nguyễn Mạnh Tường không được”khai thác triệt để”
là một điều hết sức đáng tiếc. Nhưng dẫu biết vậy, ta vẫn phải thừa nhận, điều
“hết sức đáng tiếc” đó chủ yếu thuộc về phần lỗi của lịch sử. Mà lịch sử đôi
khi vẫn có “cái lý riêng” của nó. Đến thời điểm này, sự bàn cãi quá nhiều về sự
đóng góp của ông cho nền học thuật nước nhà thiết tưởng đã không còn cần thiết.
Chúng ta chỉ có thể khẳng định, sau hơn 70 năm ra đời của Đại học Tổng hợp Văn
khoa (1945), bởi những lý do lịch sử, sự đóng góp “khiêm tốn” của Nguyễn vẫn là
niềm tự hào của trường, của khoa. Con người và sự nghiệp “khiêm tốn” đó vẫn rất
đáng được trân trọng.
Sự “trân trong” đó
nên được hiểu từ góc độ nào? Như trên đã nói, công bằng mà xét, những công
trình khoa học Nguyễn Mạnh Tường để lại (trong cả tiếng Việt và tiếng Pháp, đã
in hoặc chưa in), ở cả thời kỳ đầu lẫn thời gian trở lại sau này, chưa có được
sự ảnh hưởng sâu rộng đến nền khoa học
xã hội và nhân văn trong nước. Hay đúng hơn, vì bản thân ông đã từng bị “quên
lãng” quá lâu, nên khi quay trở lại với chuyên môn khoa học, những cuốn sách
ông công bố không còn được nhiều người chú ý. Phần viết tiếng Pháp chưa được
dịch thì không phải ai cũng đọc được. Phần viết bằng tiếng Việt được công bố ở
thời điểm tên tuổi của ông không còn “hót” nữa, thậm chí đã bị “lãng quên”. Bản
thân ngành nghiên cứu xã hội và nhân văn trong nước lúc đó cũng đã bắt đầu có
sự đổi mới. Quả thật rất khó cho một nhà nghiên cứu rơi vào “hoàn cảnh đặc
biệt” như Nguyễn Mạnh Tường. Dù vậy, vốn là người bản lĩnh và trung trực,
Nguyễn Mạnh Tường rất ít khi thay đổi. Ngay từ những ngày đầu tiên mới bước vào
nghề, dù làm luật học hay văn chương, giáo dục hay những vấn đề xã hội, thiên
hướng nhất quán của Nguyễn Mạnh Tường trong các trang viết và hành xử đều luôn
hướng đích đến là con người.Chính
xác hơn, đó là con người cá nhân. Đây là
nét nổi bật của nền khoa học nhân văn ở đất nước ông từng được đào tạo. Đó là
Tự do, Bình đẳng, Bác ái, và cao nhất là Hạnh phúc với con người. Với văn
chương đó là là niềm hạnh phúc được thỏa mãn cái Đẹp. Và luật học đó là Công lý
và sự Công bình. Nội dung chính trong bản luận án tiến sĩ luật của ông, L’individu dans la vieille cite annamite
(cá nhân trong xã hội Việt Nam cổ), về mặt lý thuyết là đi theo hướng đó. Trong
khi trên phương diện thực tế, sau này khi trở về Việt Nam, Nguyễn Mạnh Tường đã
từng tham dự nhiều phiên tòa trong tư cách luật sư, và theo giáo sư Nguyễn Kim
Đính kể lại, vốn là người “khẩu khí”, ông luôn có ý thức bênh vực những người ở
“vị trí thấp kém” và nghèo khổ. Con người Nguyễn Mạnh Tường là như vậy, cho dù
không phải có khi bản thân ông cũng “tự mâu thuẫn’ với chính mình, nhưng trong
mọi hành xử cuộc sống và khoa học, ông giàu tính nhân văn và nhất quán. Nhìn
vào bảng thư mục các đầu sách văn chương của ông, chúng ta dễ dàng thấy Nguyễn
Mạnh Tường dành khá nhiều cho mảng sách hư cấu, sáng tác, phần nghiên cứu còn
lại, chính xác, chỉ gồm 4 đầu sách như chúng tôi đã dẫn ở trên: Essai sur la valeur dramatique du théâtre d’Alfred (Khảo cứu
giá trị tính kịch trong kịch/sân khấu của d’Alfred Muset), Luận án tiến sĩ văn
chương, 1932, tiếng Pháp trong nguyên bản, chưa in [1], Eschyle và bi kịch cổ đại Hy Lạp, NXB GD, Hà Nội, 1996 [2], Viergile và anh hùng ca La Tinh, NXB
KHXH, Hà Nội, 1996 [3], L’Annam dans la
littérature francaise, Jules Boissières, chưa dịch [4]. Trong số các công
trình này, chỉ duy nhất Eschyle và bi
kịch cổ đại Hy Lạp là được viết mới. Cuốn sách thể hiện rất rõ năng lực
chuyên môn cơ bản của ông. Tuy nhiên, người đọc Việt Nam không có cơ hội tiếp
xúc nhiều với những cuốn sách kiểu này. Cũng có lẽ vì những công trình đã viết
(bằng tiếng Pháp) không được dịch sang tiếng Việt, trong khi những công trình
bằng tiếng Việt lại quá ít. Tuy nhiên, có thể khẳng định, dù ở bất cứ lĩnh vực
nào, văn chương, luật học hay giáo dục, vị “giáo sư của hai bằng tiến sĩ” này
cũng đều hướng mối quan tâm thường trực của ông vào vấn đề con người (trong tư
cách cá nhân) và giá trị nhân văn của con người cá nhân đó. Không phải ngẫu
nhiên, cả ba công trình quan trọng nhất của ông, hai bản luận văn tiến sĩ văn
chương và luật học, cùng cuốn Giáo dục
châu Âu, đều toát ra nội dung cơ bản đó. Quả là căn cứ trên những nhận xét
này, chúng ta chưa thấy có sự cân xứng giữa tài năng thực và kết quả vị giáo sư
này để lại. Cũng có thể chúng ta quá kỳ vọng vào ông. Nhưng như trên đã nói,
điều đáng tiếc đó không thuộc về ông mà thuộc về lịch sử. Nhân 110 năm ngày
sinh của “vị giáo sư của hai bằng tiến sĩ”, dù không phải là thế hệ học sinh
trực tiếp của thầy, tôi vẫn dám quả quyết, Nguyễn Mạnh Tường là một nhà khoa
học tài ba, một nhà hoạt động xã hội tâm huyết, bản lĩnh và một công dân yêu
nước.
NHỚ BÁC NGUYỄN MẠNH TƯỜNG
Tiến sĩ NGUYỄN NGUYÊN HY
Năm 2019 là
kỉ niệm 110 năm sinh bác Nguyễn Mạnh Tường, một con người đặc biệt, một thần
đồng sống đến gần 90 tuổi với số phận viên mãn mà chính bác tự coi là “an nhiên
tự tại”, bất chấp những vùi dập của đời thường. Với lòng một người Việt yêu quí
bậc trí thức hiếm có của đất nước, tôi xin viết đôi dòng kí ức về bác coi như
một nén hương kính dâng lên anh linh bác. Tôi sống gần nhà bác (34 Tăng Bạt Hổ)
và quen với mấy người con bác từ thuở bé (anh Nguyễn Tường Hưng, các chị Nguyễn
Dung Nghi và Nguyễn Dung Trang) cho đến già, nên hay sang nhà bác, được nói
chuyện với bác. Kí ức về bác tuy không nhiều nhưng với tôi vẫn rất sâu đậm.
Những năm
1960 hai bác Nguyễn Mạnh Tường và Tống Lệ Dung đều còn trẻ đẹp, sống hiền hòa
trong ngôi biệt thự tư – tài sản hiếm hoi ở một Hà Nội nhếch nhác sau năm 1954.
Bác có phòng khách đầy sách vở, và lúc nào cũng cặm cụi viết lách. Những năm
1980 một số bạn cần học thêm tiếng Pháp nâng cao để đi dạy đại học ở Algeria,
tôi đều dẫn sang nhà bác Tường xin học bác. Một số người không theo được lịch
dạy hàng ngày của bác thì tôi dẫn sang nhà giáo sư Vũ Như Canh ở 27 Nguyễn Gia
Thiều, một giáo sư được Pháp phong hàm, cử về Việt Nam làm phó hiệu trưởng đại
học Đông Dương năm 1952. Ông là một người thích kể chuyện về bác Tường và rất
phục tài năng tiếng Pháp của bác.
Vào năm 1988-1989, phục vụ đề án giới thiệu du lịch cho Cổ
Loa ở Đông Anh-Hà Nội, giáo sư Trần Quốc
Vượng, người đang quan tâm nghiên cứu di tích thành Cổ Loa và Thục Phán An
Dương Vương. đã giúp tôi viết một bài tản văn rất hay về Cổ Loa. Tôi bèn mang
sang nhờ bác Tường chuyển ngữ sang tiếng Pháp để gửi cho UNESCO. Vài ngày sau
bác đích thân sang nhà đưa lại và cho tôi bài MÉDITATION SUR CỔ LOA, Archéologie au Vietnam. Bài viết tiếng
Pháp kí tên đầy đủ học vị tiến sĩ Luật khoa và tiến sĩ Văn khoa (Docteurès Lettres et en Droit). Nhưng khoảng một tháng sau, bác Tường lại sang nhà
tôi nói:
- Cái bài báo ấy không đăng được nữa đâu
anh Hy ơi. Mỵ Châu Trọng Thủy chúng nó hòa nhau rồi anh!
Tôi chẳng biết nói sao. Bản photocopy bài ấy
tôi đã gửi đi UNESCO rồi. Và tôi cũng chẳng nhận được phản hồi gì của họ. Bác
bảo “- Đành mặc kệ thôi. Tôi tặng anh bài ấy, giữ lại, biết đâu sau này có lúc
đắc dụng”.
Vào năm 2015, nhân dịp chuẩn bị 20 năm
ngày mất của bác, tôi đã gửi bài ấy cho người quen, một học giả bút danh Thiếu
Khanh, nhờ anh gửi đăng ở cộng đồng Pháp ngữ. Rồi tôi cũng gửi tặng lại bản
thảo do đích thân bác Tường đánh máy cho người con gái bác là chị Nguyễn Dung
Nghi. Chị Nghi nói đã chuyển cho người cậu chị ấy ở Pháp (cậu Lung hay cậu
Cường tôi không nhớ rõ). Bài văn ấy giờ đã được đưa lên trang Viet-studies ngày
14-12-2010” http://tuvietfr.com/meditation-sur-co-loa-nguyen-manh-tuong/.
Tôi vui mừng vì bài viết công phu về một
sự kiện lịch sử văn hóa người Việt của bác Nguyễn Mạnh Tường, còn lưu trữ, và
nay lại có dịp được ban tổ chức kỷ niệm của Trung tâm văn hóa Minh Triết tìm
đọc, khiến cho hậu thế có văn bản, xem và suy ngẫm, chia sẻ với bác.
Những ngày tháng năm 1990 tuổi Nguyễn Mạnh
Tường đã cao, nhưng vẫn rất minh mẫn. Có lần bác kể cho tôi nghe về một số công
trình của bác :
- Tôi muốn cho anh xem những ghi chép của
tôi; suốt hơn 40 năm về Nền dân chủ pháp
trị Hy Lạp, La Mã bằng cả ba thứ tiếng: Pháp, Anh và tiếng Việt… Gốc rễ ở
đó là tinh thần pháp lí vị nhân bản, chứ không vị thân thế, quí tộc hay công
dân thường….Tòa án không được kết tội ai chỉ theo lời khai, kể cả lời tự thú
của nghi can, mà phải căn cứ vào “chứng cứ” không thể bác bỏ, dù nghi can không
chịu công nhận …Bộ Luật hình Napoleon
thế kỷ XVIII thực chất là bắt nguồn từ đó.
Lần khác, nghe tôi thắc mắc “vì sao tiếng Pháp của bác hay đến mức người
Pháp thực thụ (kể cả quan chức cao cấp Pháp) nghe bác nói chuyện đều cảm phục,
ca tụng”. Bác giải thích không phải do trí thông minh. Thời trẻ bác từng nổi
tiếng thần đồng, mà là do may mắn bác được học cả hai thứ cổ ngữ là chữ Hy Lạp
và chữ La Tinh; vốn là cội nguồn ngôn ngữ của tiếng Pháp hiện đại. Bác đọc hay
nghe tiếng Pháp không cần dung từ điển, mà hầu như mọi ẩn dụ sâu xa và ý tứ
thâm thúy bác đều hiểu rõ. Từ đó, có thể nói bác đã năm vững cái hồn của tiếng
Pháp, nhất là tiếng Pháp parisien, một ngôn ngữ đỉnh cao thời cận-hiện đại.
GS Vũ Như Canh từng kể rằng, tại một buổi
thuyết trình của tiến sĩ Nguyễn Mạnh Tường ở Hội Khai Trí Tiến Đức tại Hà Nội
trước năm 1939 - chủ đề rất khó về pháp chế Cộng hòa La Mã - các giáo sư Pháp của đại học Đông Dương, quan
toàn quyền Đông Dương đều lắng nghe và hết lời khen ngợi. Giaso sư Canh còn nói
rằng, khi ông học và dạy tại đại học Montpellier - nơi ông bảo vệ tiến sĩ và
được phong giáo sư (docteur d’état và professeur titulaire) - những năm 1940- 1952, tức 20 năm sau tiến sĩ
Nguyễn Mạnh Tường cũng học và dạy tại đây, ông đã nghe nhiều người Pháp có danh
vọng đương thời nhắc đến và ca tụng tài năng chói sáng của chàng thanh niên
Nguyễn Mạnh Tường thời trẻ. Và phải kể thêm rằng sau năm 1999, tức hơn 70 năm
sau “ngôi sao lưỡng quốc tiến sĩ” Nguyễn Mạnh Tường vẫn tỏa sáng ở đại học
Montpellier.
Con trai tôi từ đại học Bách khoa Hà Nội, sang thực tập ở trường ấy,
nhiều người, nhất là giới Việt Kiều còn tự hào kể chuyện về bác Nguyễn Mạnh
Tường như một tấm gương sáng cho hậu thế noi theo.
Tưởng nhớ bác Nguyễn Mạnh Tường, tôi rất tâm đắc và nhớ mãi buổi bác nói
chuyện tại Câu lạc bộ Thời sự - Khoa học (53 Nguyễn Du – Hà Nội); sau chuyến đi
thăm lại nước Pháp năm 1989 sau 40 năm. Bác đã dành thời gian kể lại cuộc đời
thăng trầm, biến đổi và trả lời phỏng vấn phóng viên tờ Le Monde – một tờ nhật báo lớn ở Paris. Nhà báo tập trung vào vấn
đề chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản và gắn với tình hình Việt Nam. Trong đó
có đoạn tâm sự của bác – một lời đúc kết rất hay của cả một thân phận trí thức
cương trực và quả cảm của:
“Con
người có những thăng trầm. Tôi không thoát khỏi định luật chung đó. Ba mươi năm
dài tôi đã sống và đau khổ. Cuộc đời có lúc mình cảm thấy thất vọng muốn điên
lên được. Tôi đã thấy những giờ phút đó. Bằng cách dốc toàn lực vào nghiên cứu,
vào việc thực hiện những ý tưởng của mình, tôi đã hoàn toàn thỏa mãn về cuộc
đời, vì mọi ước mơ của tôi đều đã thành đạt. Tôi mơ làm giáo sư văn chương Tây
thì tôi đã là giáo sư. Tôi mơ trở thành trạng sư cãi những vụ nổi tiếng, tôi đã
là trạng sư. Tôi mơ một cuộc sống thật gần gũi người dân, nghề giáo và trạng sư
đã giúp tôi cảm thông và sống được với những nỗi niềm của người dân bình dị.
Tôi mong được nhiều người thương, thì đâu đâu cũng gặp tình cảm thân thương.
Việc tôi sang đây chứng tỏ hùng hồn tình cảm và sự giúp đỡ to lớn của các bạn
trí thức dành cho tôi.
Cuối cùng, tôi muốn đóng góp chút gì ích
quốc lợi dân, thì tôi đã hoàn thành những tác phẩm như mong muốn. Sang đây gặp gỡ nhiều bạn trẻ,
thấy ai cũng thao thức về quê hương, đất nước, tôi mừng và an tâm. Thế hệ chúng
tôi được lòng yêu nước thôi thúc. Thế hệ ngày nay cũng được lòng yêu nước nuôi
dưỡng. Chúng ta gặp gỡ trong tâm tình. Tôi chỉ xin cầu chúc các bạn: “Hãy luôn
sống đúng danh dự của người trí thức. Hãy vun trồng không nguôi lòng yêu nước
và luôn nuôi dưỡng việc nghiên cứu và hướng nó về quê hương”.
Khi qua thăm nước Pháp, một số học trò bên
đó mời tôi ở lại vì thấy tôi đến già vẫn sống đạm bạc. Nhưng tôi từ chối: “ -
Tôi là người trí thức Việt Nam, tôi có lòng tự trọng của mình. Tôi không thể vì
miếng cơm, manh áo mà bỏ đất nước nghèo ra đi”.
Một ít ngày sau khi bác mất (13 tháng 6 năm1997), tang lễ bác được Bộ
Giáo dục và Đào tạo tổ chức tại nhà tang lễ quốc gia, số 5 Trần Nhân Tông, Hà
Nội. Thứ trưởng Nguyễn Minh Hiển - vừa được cử vào trung ương dự khuyết, chức
Đảng cao hơn bộ trưởng sắp nghỉ - làm trưởng ban lễ tang. Anh thứ trưởng giải
thích anh phải đến đây là do lệnh bằng điện thoại của cụ Đỗ Mười, lúc đó làm
tổng bí thư. Anh cũng thắc mắc tại sao cụ lại quan tâm thế. Tôi thưa rằng, nhà
cụ ở số 11 Phạm Đình Hổ, gần cạnh nhà
bác Tường; hai cụ nói chuyện với nhau hàng ngày qua ban - công phía sau!
Ấy là chưa kể, cụ Đỗ Mười đã từng trải qua chục năm “yếu thần kinh”
(1960-1970), hay đi lang thang quanh phố xá, có bận bịu “đệ tử con sen” hay đại
sự gì đâu mà chả thích “chuyện vãn” với bác Tường hàng xóm. Nói chơi vậy chứ
đằng sau chuyện ấy là “bồ tâm sự” của vị “đại thần công nông” ở “giới anh kiệt”
quốc gia. Hai cụ tỏ rõ lập trường là một chuyện, nhưng “cảm vì nghĩa khí, trọng
vì tài hoa” lại là chuyện khác, nên cả hai cụ ít khi đề cập. Theo chiều ngược
lại, người bị tham chính khi thất sủng, sống như thế nào mà giữ được khí tiết
cho người ta trọng, thật không phải chuyện dễ.
Với giáo sư Nguyễn Mạnh Tường, cuộc đời của bác để lại một bài học đáng
giá cho nhiều trí thức hậu thế là ở chỗ đó. Và như lời chính bác đã nói với Câu
lạc bộ Thời sự - Khoa học (năm 1989): “Chúng
ta gặp gỡ trong tâm tình. Tôi chỉ xin cầu chúc các bạn: Hãy luôn sống đúng danh
dự của người trí thức. Hãy vun trồng không nguôi lòng yêu nước và luôn nuôi
dưỡng việc nghiên cứu và hướng nó về quê hương”.
Hà Nội –
tháng 8 năm 2019
TẤM GƯƠNG
KẺ SĨ CHÓI NGỜI
VŨ
THẾ KHÔI
Hôm nay, ngày 13 tháng 6 năm 2019, ngày
giỗ thứ 22 của bậc đại trí thức Việt Nam thời hiện đại – cố GSTS. Luật sư
NGUYỄN MẠNH TƯỜNG (1909 - 2019) – “lưỡng khoa tiến sĩ”người Việt Nam đầu tiên
bảo vệ thành công ở đại học nước Pháp; với 2 bằng tiến sĩ liền trong một năm,
thời gian chỉ cách nhau một tháng: Tháng 5/1932 – luận án tiến sĩ luật khoa và
tháng 6/1932 – luận án tiến sĩ văn chương, khi mới 23 tuổi. Báo chí nước Pháp
thời bấy giờ đồng loạt ca ngợi chàng thanh niên từ xứ thuộc địa Đông Dương đã
làm nên chuyện chưa từng một thanh niên “mẫu quốc” nào làm nổi từ khi có học vị
“docteur d’État” (tương đương tiến sĩ khoa học ở ta bây giờ).
Cầm một tấm bằng tiến sĩ, chắc chắn chính
quyền thực dân đã chèo kéo vào bộ máy cai trị, huống hồ giật hai bằng liền, nên
họ ra sức “chiêu hiền”, nhưng ông nghè kép kiên quyết khước từ tham chính, chỉ
làm hai nghề tự do là giáo sư và trạng sư. Cuối đời cụ Nguyễn bộc lộ với một ký
giả: “Tôi không hề tham gia Mặt trận Việt Minh. Bao giờ tôi cũng là một người
yêu nước, luôn luôn ưu tư đến việc giành lại độc lập cho đất nước. Tuy nhiên
tôi tự xác định cho mình một vị trí là làm một người trí thức. Mà người trí
thức, muốn độc lập, thì không nên tham chính. Người trí thức phải đứng về phía
dân chứ không đứng về phía chính quyền”.
Cha tôi - Vũ Đình Hòe - năm 1996, khi đang
tạm trú ở thành phố Hồ Chí Minh nghe tin cụ Hoàng Xuân Hãn mất, từng tâm sự:
“Cụ Hãn, cụ Tường là bậc đàn anh của thế hệ chúng tôi, treo hai tấm gương kẻ sĩ
chói ngời”, rồi cụ dẫn câu nói nổi tiếng của Mạnh Tử mà thuở tôi học chữ Nho
với ông nội từng được nghe cắt nghĩa: “Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng
di, uy vũ bất năng khuất” Cụ Hãn thì thoát bần tiện (vì tỉnh táo hơn chăng?)
chứ cụ Tường thì từng phải trải nghiệm nghèo túng (“bần tiện”) thực sự, bị nhà
đương cục Hà Nội bỏ đói. Nhưng có lay chuyển được (“bất năng di”) cụ đâu!”
Cha tôi kể chuyện hồi sửa sai CCRĐ Mặt
trận có chủ trương bằng văn bản kêu gọi các tổ chức quần chúng (hai đảng Dân
chủ và Xã hội cũng là hai tổ chức quần chúng thôi mà!) đóng góp ý kiến. Bên Dân
chủ có văn bản kiến nghị hẳn hoi gửi lên TW Đảng Lao Động. Kết quả của “đóng
góp” là bác Đức, bác Dục và tôi bị đưa ra hội nghị mở rộng của TW Dân Chủ để
đấu tố và hạ bệ. Bên Xã Hội diễn biến thế nào tôi không rõ, nhưng bác Tường bị
đấu còn ghê gớm hơn: đưa ra giảng đường đại học Lê Thánh Tông cho mấy học trò
trẻ ranh nhảy ra xỉa xói thầy! Trời đất quỷ thần! Không còn một chút đạo lý,
liêm sỉ gì!”
- Con nghe nói do bác Tường vi phạm quy
định không tiết lộ ý kiến ra ngoài, bị địch lợi dụng.
Cha tôi trừng mắt: - Cậu nghe ai nói?! Tôi đã có lần trực tiếp hỏi, ông Tường bảo đánh máy hai bản, giao hết cho Ban thư ký, từ đâu bay ra ngoài, chính ông không biết!... Đấu tố không khuất phục được ông, người ta đuổi ra khỏi biên chế để cắt sổ gạo!!! Chưa thôi. Bán hết đồ quý giá trong nhà lấy tiền đong gạo nuôi vợ chỉ tần tảo nội trợ và ba đứa con, ông xoay ra dạy tư tiếng Pháp kiếm sống, thì công an xộc đến tận nhà: Cấm!”
Sao không nhớ đến những lúc vận nước ngàn
cân treo sợi tóc chạy đến cậy nhờ!
GS Hoàng Xuân Hãn có viết trong hồi ký về
vai trò của luật sư Nguyễn Mạnh Tường trong phái đoàn của Chính phủ ta năm 1946
lên đấu tranh bảo vệ nền Độc lập và toàn
vẹn lãnh thổ. Cha tôi trước khi mất ít lâu còn kịp kể cho nhà báo Kiều Mai Sơn
về việc trong thời Kháng chiến chống Pháp Luật sư Nguyễn Mạnh Tường được chỉ
định làm trạng sư cãi cho Bảo Đại trong phiên tòa xét xử tội phản quốc của ông
vua đào nhiệm. Tôi hỏi sao cha không viết về cụ Tường trong hồi ký của mình,
thì ông trả lời: vấn đề nhân vật này còn “tế nhị” hơn ba tên “chống cộng”
Đức-Dục-Hòe. Một tháng trước khi mất ở tuổi thọ bách niên, cụ Hòe gọi tôi vào
giúp cụ làm những bài cuối cùng: “Bỏ hết việc, vào đi, làm những bài anh nhắc.
Thời gian của tôi sắp hết rồi!”. Chỉ kịp làm hai bài về các cụ Đỗ Đức Dục và
Hoàng Văn Đức. Bài về cụ Nguyễn Hữu Đang đang làm dở dang thì cụ Hòe đột ngột ra đi…
Năm
2004 cha mẹ tôi cùng ở TP Hồ Chí Minh ra chủ trì hôn lễ của đứa cháu đích tôn,
xong việc, bảo tôi đưa đến thăm bà Tống Lệ Dung ở 34 Tăng Bạt Hổ. Bức ảnh cưới
mà tôi trình các bạn, là bà Lệ Dung tặng vào dịp đó. Hôm kia, tôi được gọi đến
dự Giỗ cụ Nguyễn Mạnh Tường do gia đình cùng trung tâm Minh Triết tổ chức tại
nhà riêng. Ở đó, tôi đã được diện kiến các đàn anh trong khoa học mà tôi luôn
kính trọng như GS Nguyễn Đình Chú, GS
Nguyễn Kim Đính, GS Hoàng Trọng Phiến … đều từng là học trò của cụ Nguyễn Mạnh
Tường. Trung tâm Minh Triết dự định cùng với họ tiến hành một cuộc tọa đàm về
Nhà văn hóa Nguyễn Mạnh Tường vào tháng 9 năm nay, nhân kỷ niệm 110 ngày sinh
(16/09/1919 – 16/09/2019) của Cụ. Tôi, vô danh tiểu tốt, cũng được đề nghị viết
tham luận. Tôi hy vọng gặp lại ở đây một vị GS NGND thuộc thế hệ học trò các
bạn đồng môn của tôi, từng giữ chức khá cao – “hậu sinh khả úy” mà! - trong
ngôi trường cụ Tường đã giảng dạy, lại là hàng con cháu thân thuộc, nhưng tôi
đã thất vọng: anh ta không đến. Nhưng tôi lại được gặp tay bắt mặt mừng với
người học trò tiếng Nga năm xưa của tôi, chẳng GS-TS gì ráo, mà gặp duyên nên
thành cháu ngoai của cụ Giáo sư Tiến sĩ kép. Chính là với anh, tôi đã hứa sẽ
đưa tấm ảnh cưới và bài về ông ngoại của anh lên tường cá nhân của tôi.
NGƯT Vũ Thế Khôi
(Đêm 13 rạng 14/09/2019)
[1] . Chính xác hơn, căn
cứ vào thư mục 18 đầu sách của Nguyễn Mạnh Tường, có 3 cuốn, đã in và chưa in
đề cập đến vấn đề này: Kẻ bị mất phép
thông công (Un Excommunie), in tại Pháp 1992, L’Armes
et sourrires d’une vieilesse (Nước
mắt và nụ cười của một ông già) tự
truyện, 3 tập, chưa in, và Palinodies
(Phủ nhận), chưa in
[2] . Theo Ngô Trần Đức, Hồn việt 1/2011, tr.63
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét