Bác Hồ duyệt đội danh
dự Quân đội Xô Viết trong chuyến thăm Liên Xô 1955
Bài: Đinh
Hoàng Thắng
Thế
giới là cuộc cờ vĩ đại mà các cường quốc thường là những “tay chơi cờ độn nước”.
Kẻ thức thời biết dựa vào loại cờ nào. “Ai cho kén chọn vàng thau tại mình”. Cờ
Tàu, tốt muôn đời vẫn là con tốt, kể cả khi nó chiếu được tướng. Cờ Tây, chơi đến
tận hàng cuối, tốt có thể về hậu. Nhưng cờ Tây thì phải đi với nhau đến tận
cùng mới có kết quả. Phải biết gắn mình vào thế trận chung với các quân cờ
khác, dù đó là vua hay hậu, tượng, xe, để đi đến thắng lợi.
Hệ tư tưởng trong chiến
tranh Việt Nam nhiều khi chỉ là lớp vỏ bên ngoài. Ta – Tây – Tàu, giữa đồng chí
cùng “phe” vẫn thấu thị được bản chất các sáo ngữ. Sau chiến tranh, những tưởng
ý thức hệ hết chỗ đứng. Nhưng không! Cứ mỗi thập kỷ qua đi, dưới lá bài “cùng
chung vận mệnh”, một dạng hệ tư tưởng trá hình, Bắc Kinh lại đạt được những bước
tiến mới trên con đường độc chiếm Biển Đông và bành trướng xuống Đông Nam Á.
Cái “vỏ” bốn tốt và mười sáu chữ vàng liệu có cứu được Việt Nam thoát khỏi cuộc
xung đột mới trên đất liền hoặc ở tận mãi ngoài các đảo xa?
“Ông Liên Xô bà Trung
Quốc…”
45 năm về trước, ngày
15/5/1975, tại một cuộc mit-tinh lớn ở Hà Nội, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn khẳng định,
thắng lợi từ cuộc kháng chiến của Việt Nam “cũng là thắng lợi của các lực lượng
xã hội chủ nghĩa”. Mặc dầu tuyên bố thế, nhưng vốn “đi guốc trong bụng” Trung
Quốc và Liên Xô nên ông Lê Duẩn biết rất rõ, 30/4/1975 chính là ngày mà ý chí độc
lập của người Việt đã cho “đo ván” những kẻ muốn lợi dụng ý thức hệ để chia cắt
đất nước, đẩy dân tộc Việt Nam vào cuộc phân tranh dai dẳng.
Chỉ cần “soi” các mục tiêu
sâu xa của cả Liên Xô lẫn Trung Quốc suốt thời kỳ chiến tranh, có thể thấy anh
Cả lẫn anh Hai hẫng hụt như thế nào trước các hiệu ứng ngày 30/4/1975. Bắc Kinh
từ 1954 bằng mọi cách đã thao túng Hiệp nghị Giơ-ne-vơ, với mục tiêu kéo dài, nếu
có thể thì vĩnh viễn, chia cắt giải đất hình chữ S, biến nó thành khu đệm để
Trung Quốc làm quân bài ngã giá với Mỹ hay cạnh tranh với Liên Xô. Mục tiêu xa
hơn nữa là trong quá trình “chống lưng” cho Việt Nam và các lực lượng cộng sản
châu Á, Trung Quốc luôn luôn rắp tâm dọn đường để đưa hàng triệu nông dân từ đại
lục tràn ngập lãnh thổ Đông Nam Á.
Liên Xô, khiêm tốn hơn, chẳng
có tham vọng lãnh thổ hay di dân. Tuy nhiên, khi đấu tranh võ trang ở miền Nam
có dấu hiệu mạnh lên, lo sợ ảnh hưởng đến đường lối “chung sống hoà bình”,
Mátxcơva đã đe Hà Nội chớ giải phóng nửa nước bằng con đường bạo lực! “Đốm lửa”
ấy có thể thiêu rụi cả “cánh đồng” cách mạng. Đấy cũng là căn nguyên của cuộc
sát phạt “xét đi… xét lại” gây báo tang thương cho một bộ phận tinh hoa trong nội
bộ cộng sản Việt Nam. Nhưng với diễn tiến các sự kiện, về sau Mátxcơva đã lần
lượt cho hàng loạt đoàn tàu chở đầy ắp các thiết bị và khí tài quân sự sang Hà
Nội để viện trợ cho chiến trường.
Một mặt, Liên Xô dùng Việt
Nam kềm chân Mỹ, để bản thân được rảnh tay ở trời Âu, đối phó với cả Tây lẫn
Đông Âu. Mặt khác, muốn “làm le” với thế giới về sức mạnh của ba dòng thác,
dùng cuộc kháng chiến của Việt Nam để khuếch trương thanh thế với tư cách là
“thành trì của cách mạng thế giới”. Bên tung bên hứng! Về phần mình, Việt Nam
cũng tự nhận đất nước là nơi tập trung các mâu thuẫn thời đại, cho nên “nếu lịch
sử chọn ta làm điểm tựa/ vui gì hơn làm người lính đi đầu/ trong đêm tối, tim
ta thành ngọn lửa!” (Tố Hữu).
Tuy nhiên, “soi” từ cấp độ
đại chiến lược, các đế chế như Trung Hoa hay Xô Viết ít khi chịu làm tù binh
cho bất cứ một phương án duy nhất nào. Họ bao giờ cũng chuẩn bị nhiều con bài
trong tay cùng một lúc. Nếu cho rằng cả Bắc Kinh lẫn Mátxcơva cũng đều lãnh đủ
như các “bên thua cuộc” khác với hệ quả không đảo ngược thì quả là không đúng.
Ngay cả trước năm 1975, khi chủ trương ép Việt Nam đánh Mỹ theo tiến độ riêng của
mỗi nước thất bại, Trung Quốc và Liên Xô vẫn gây cho Việt Nam một số khó khăn.
Lịch sử ghi lại hai sự kiện
ngoại giao chấn động: chuyến thăm Bắc Kinh (tháng 2/1972) và Mátxcơva (tháng
5/1972) của tổng thống Richard Nixon. Nixon đến Trung Quốc, dù lúc bấy giờ giữa
hai nước chưa có quan hệ ngoại giao, nhằm ép Hà Nội ký một hiệp ước hòa bình có
lợi cho Mỹ. Nixon hy vọng, sự xích lại gần nhau giữa Mỹ với hai đồng minh hàng
đầu của Hà Nội sẽ khiến cho Bắc Việt Nam nhượng bộ trong các cuộc hoà đàm
Paris. Nhất là về cuối, lãnh đạo Liên Xô bắn thông điệp muốn Việt Nam kết thúc
cuộc chiến tranh tỏ ra tốn kém đối với đất nước này.
Tự nhận là “NATO phương Đông”
Ngày 15/5/1975, trong khi Bí thư thứ
nhất Lê Duẩn từ Hà Nội đang nhiệt liệt gửi đến nhân dân Camphuchia anh em – bạn
chiến đấu cùng chiến hào – “lòng biết ơn vô hạn và tình đoàn kết sắt son”, thì
một số đơn vị bộ đội Việt Nam, với súng AK và ba lô con cóc, chỉ sau có một bữa
trưa duy nhất liên hoan mừng thắng lợi (đúng trưa 15/5), đã lại lên đường ra tiền
tuyến, giáp chiến với Khmer Đỏ đang say máu “cáp Duồn” (chặt đầu người Việt)
ngay tại các tỉnh trên biên giới Tây Nam.
Nhưng cũng gần 4 năm sau thời điểm ấy, chiều
11/4/1979, đại sứ Trung Quốc bên cạnh “Khmer Dân chủ” quần áo nhếch nhác bẩn thỉu,
nước mắt đầm đìa, đã cùng với bảy đồng nghiệp, nuốt hận đào tẩu qua đất Thái
Lan. Lần đầu tiên, đại diện của một vương triều trung tâm (Trung Quốc) buộc phải
rút khỏi vùng đất chư hầu (Campuchia). Bỉnh bút Naya Chanda trong tác phẩm
“Vietnam’s Invasion of Cambodia, Revisited” đã mô tả khoảnh khắc 41 năm về trước,
khi các cố vấn Trung Quốc buộc phải lang thang trong rừng già Campuchia suốt 61
ngày, ngủ trong các lều lợp cỏ tranh, ăn đồ hộp trên đường tháo chạy.
Tuy nhiên, mẻ lưới lớn trước đó Trung Quốc
đã “cất” được vào tháng 10/1971 là thay thế Trung Hoa Dân quốc nắm giữ chiếc ghế
hội viên thường trực tại HĐBA/LHQ. Trung Quốc trở thành một trong những trung
tâm quyền lực có tiếng nói và ảnh hưởng trên vũ đài thế giới. Bắc Kinh còn tự
xưng là “NATO phương Đông”, khi Đặng Tiểu Bình sang tận Mỹ để tìm kiếm nguồn đầu
tư cho nền kinh tế đang yếu kém của mình. Sau thời điểm đó, Trung Quốc trắng trợn
cưỡng chiếm biển đảo của Việt Nam, mở các gọng kìm trên mặt trận Tây Nam, biên
giới phía Bắc và làm chảy máu Việt Nam suốt hơn 10 năm ở Campuchia…
Nếu giải ảo sâu hơn các động lực chiến lược,
trước khi cuộc chiến kết thúc, Trung Quốc đã chuyển chính sách trên đại cục
cũng như trong quan hệ với Việt Nam. Tiên liệu được kết quả của chiến tranh,
Trung Quốc nhanh chóng triển khai ngay những quân bài mới. Trước lúc Dương Văn
Minh gặp đại diện “bên thắng cuộc”, Trung Quốc đã cho người bắt liên lạc, động
viên “Big Minh” cầm cự, hứa sẽ đổ quân tiếp viện, giúp Sài Gòn dựng chính quyền
mới ở miền Tây Nam bộ.
Sự thật hắc ám nói trên không chỉ được biết
đến qua tiết lộ của Dương Văn Minh, mà còn qua nhiều phản ứng cấp thời, cả công
khai lẫn bí mật, của ban lãnh đạo Ba Đình. Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch từng nhận
xét, trong quá trình điều chính sách, Trung Quốc đổi đồng minh như thay đồ lót.
Một trong những thay đổi lớn hồi bấy giờ chính là “cái bẫy” mang tên Khmer Đỏ
mà Trung Quốc đã dựng ra trước đấy để hiện thực hoá mưu đồ, không chia cắt được
thì tiếp tục làm cho Việt Nam “chảy máu”.
Vậy là thời kỳ khoác áo ý thức hệ như những
anh em đồng chí giữa Hà Nội và Phnom Penh dưới sự bảo trợ của Bắc Kinh chấm dứt.
Chiến lược lợi dụng hệ tư tưởng lúc bấy giờ không còn tác dụng. Cùng khi ấy,
chính sách dùng Việt Nam tiêu hao “đế quốc Mỹ”, để Liên Xô tạo thế cân bằng vũ
khí chiến lược trên toàn cầu cũng “cuốn theo chiều gió”. Nghiêm trọng hơn, giai
đoạn liền kề, Liên Xô ngày càng mắc phải mưu sâu kế hiểm, rơi vào vòng xoáy của
chiến tranh lạnh và bị kiệt sức trong cuộc chiến tranh giữa các vì sao.
Tuy nhiên, do bất an trước
các mối hiểm hoạ thường trực của Trung Quốc, chỉ sau cột mốc 30/4/1975 ba năm,
vào ngày 3/11/1978, Hà Nội đã ký với Mátxcơva “Hiệp ước hữu nghị và hợp
tác”. Hiệp ước là một văn kiện “có ý nghĩa chính trị xuất sắc”
(lời Tổng Bí thư Brejnev). Nhưng chính văn kiện xuất sắc ấy đã cung cấp
như một cái cớ để Trung Quốc “dạy cho Việt Nam bài học”. Điều này cho thấy “lá
nho” ý thức hệ không chỉ bị xung đột Xô – Trung chôn vùi dưới lòng sông Ussuri
năm 1969, mà tình đoàn kết Việt Nam – Campuchia, Việt Nam – Trung Quốc cũng bị
tan thành mây khói trong các trận đánh đẫm máu trên chiến trường biên giới Tây
Nam (1979) và chiến tranh biên giới phía Bắc (từ 1979 đến 1989).
Liên
Xô – Bên thua cuộc kép
Trên thực tế, Liên Xô đã phải gánh chịu một
tình huống “thua cuộc kép”. Chiến tranh kết thúc đã tước mất “cái bẫy để kìm
chân Mỹ”, đồng thời Mátxcơva không đủ lực để bảo vệ Hà Nội khỏi sự trừng phạt của
Bắc Kinh. Trong khi ấy, khủng hoảng về kinh tế – xã hội trên đất nước Xô
viết ngày càng bộc lộ rõ. Việt Nam và Liên Xô không thể tiếp tục
thực thi bản Hiệp ước như cũ. Trên một số lĩnh vực, hợp tác song
phương bắt đầu có nhiều dấu hiệu suy giảm. Mátxcơva cắt dần viện trợ
cho Hà Nội.
Thậm chí, đế chế Xô Viết lại dấn bước trên
“con đường đau khổ” mới. Liên Xô tiếp tục bị “toang” ở Đông Âu. Để tranh thủ
Trung Quốc, Mátxcơva đành phải gây sức ép buộc Hà Nội sớm đưa ra một
thời gian biểu rút quân triệt để và dứt khoát khỏi Campuchia. Tình
trạng “thua cuộc kép” này của CCCP và sự tụt giảm trong các mối quan hệ Việt
– Xô kéo dài cho đến khi Liên Xô và cả hệ thống xã hội chủ nghĩa Đông Âu
sụp đổ hoàn toàn vào năm 1991. Và cái kết cục bi thảm của “tấn trò đời” ý
thức hệ lần này cũng chính là sự tiếp nối các tình tiết “sông Ussuri 1969” và
“Mekong 1979” mà thôi.
Như vậy, ý thức hệ thực ra đã chết trong các
cuộc đánh nhau giữa Liên Xô với Trung Quốc, Việt Nam với Campuchia, Trung Quốc
với Việt Nam. Nhưng chủ nghĩa dân tộc – câu chuyện ngàn năm ấy – bao giờ cũng mới
và có sức sống mãnh liệt. Vấn đề được thua trong mọi cuộc xung đột chỉ mang ý
nghĩa tương đối. “Trong mọi cuộc chiến tranh bất kể bên nào thắng thì nhân dân
đều bại”. Nguyễn Duy đã đúng! Chỉ có người Việt, từ cả hai chiến tuyến, chịu mất
mát và khổ đau. Còn các ông lớn – Mỹ, Liên Xô hay Trung Quốc – họ đều tính lỗ
lãi theo hệ giá trị riêng của mỗi bên liên quan đến cuộc chiến. Các cuộc chiến
tranh Đông Dương không phải là ngoại lệ.
Điều lạ lẫm là ngay cả khi Trung Quốc và
Liên Xô đã sớm gạt bỏ vai trò bung xung của hệ tư tưởng để đi vào “bốn hiện đại
hoá” (1976) và “перестройка” (cải tổ, 1986), thì lãnh đạo Việt Nam, tuy đã
giương ngọn cờ “đổi mới” (1986) nhưng vẫn kiên định chủ nghĩa quốc tế vô sản, vẫn
gắn “độc lập dân tộc” với “chủ nghĩa xã hội”. Bắc Kinh hẳn nhiên đã lợi dụng và
gây sức ép tối đa qua các chủ trương nửa vời này (appeasement), buộc Hà Nội đi
vào hội nghị Thành Đô (9/1990), để lại những hệ luỵ về sự can dự của Trung Quốc
đối với hậu trường chính trị Việt Nam cho mãi tới tận hôm nay.
Theo Địa-chính
trị trong chiến tranh Việt Nam của James Burnham, chuyên gia phân tích từ
Cơ quan Tình báo Chiến lược (OSS), tiền thân của Cục Tình báo Mỹ CIA, lịch sử
dường như lặp lại một vòng tròn định mệnh. Trong một báo cáo đề ngày
20/11/1964, Burnham nhận xét: “Cuộc chiến tại Việt Nam không phải là vấn đề địa
phương, vấn đề cục bộ. Đó là một chiến trường quan trọng trong cuộc tranh giành
châu Á, Tây Thái Bình Dương và Biển Đông”.
Hơn nửa thế kỷ, Biển Đông giờ đây lại dậy
sóng dữ. Nhưng lần này, “các vai diễn” thay đổi và lời tiên đoán năm xưa của
Kissinger (Việt Nam sẽ phải nhờ Mỹ để xử lý mối bang giao với Trung Quốc) dường
như được chứng nghiệm. Covid-19 đảo lộn nhiều thứ, nhưng có một thứ bất biến.
Đó là mâu thuẫn Trung – Mỹ sau đại dịch sẽ không thuyên giảm, thậm chí nhiều
chuyên gia đánh giá một cuộc chiến tranh thế giới mới, mang tính tổng lực
đã/đang diễn ra trên thực tế. Tình trạng Washington và Bắc Kinh nặng lời công
kích và tiến hành trả đũa lẫn nhau trên mọi phương diện đang truyền đi những
tín hiệu báo động đến hầu hết các chuyên gia về an ninh quốc tế.
Nói bang giao Việt – Mỹ quan trọng, nhưng nó
luôn quan trọng vì nhân tố thứ ba là nhìn nhận từ cái lăng kính địa-chính trị
nghiệt ngã nói trên. Hiện nay, cuộc cờ khu vực/thế giới ngả theo hướng: Hoa Kỳ,
Trung Quốc, Nga và châu Âu đều đang trải qua những biến động dữ dội, khôn lường
qua đại dịch Vũ Hán. Mỹ và Trung Quốc đều đang cố gắng khai thác tối đa thất bại
của phía bên kia để phục vụ cho lợi ích đối nội, đối ngoại. Các nước đều đang
khai triển những bước khác nhau nhưng cùng chuẩn bị cho một cuộc thư hùng mới
trong tương lai.
Mỹ Trung giành nhau “chiếu trên” để tái định
hình trật tự thế giới, Liên bang Nga (tuy GDP chưa bằng Italy, chỉ ngang một tỉnh
lớn của Trung Quốc) vẫn mơ “giấc mơ” của Liên Xô cũ về tầm ảnh hưởng ở Á – Âu.
Nói lại câu chuyện “ông Liên Xô bà Trung Quốc/ ông đi guốc bà đi giầy…” trên bối
cảnh này là để làm nổi bật cái minh triết của người dân Việt, cái hằng số bất
di bất dịch trong bang giao quốc tế. Mọi quốc gia trên đời, lúc nào và bao giờ
cũng hành động xuất phát từ lợi ích quốc gia – dân tộc. Mọi mỹ từ vàng son hay
có cánh đều chỉ để che đậy cái thực tế nghiệt ngã bên trong.
“Vỏ” ý thức hệ, “ruột” Đại Hán
Thật ra từ năm 1968, nhà tình báo vĩ đại Phạm
Xuân Ẩn, trong một báo cáo mật gửi về Trung tâm, đã thể hiện tầm nhìn sáng suốt
của mình khi ông phân tích: “Cuộc đấu tranh chống Mỹ là trước mắt và có thời
gian, nhưng kẻ thù nguy hiểm và lâu dài nhất sau này của Việt Nam chính là
Trung Quốc, chứ không phải là Mỹ”. Xin được nhắc lại là từ 1968, con người có
tên như cuộc đời ấy đã khẳng định như thế. Không rõ, văn phòng giúp việc các Tổng
bí thư ĐCSVN sau này, có sao lưu bức điện với nội dung chiến lược quan trọng ấy
cho các thế hệ lãnh đạo sau 1990?
Nhiều nhà nghiên cứu khác trong và ngoài nước
cũng đều nhấn mạnh đến cái gọng kìm địa-chính trị của Trung Quốc đối với Việt
Nam là vấn nạn thiên thu, dù dưới màu sắc ý thức hệ như thời chiến tranh hay là
tham vọng Đại Hán như ngày nay. Và vị thế địa chính-trị ấy cũng lại là con dao
hai lưỡi, nó có thể giúp đất nước vươn lên, nhưng cũng có thể đẩy lùi một Việt
Nam loay hoay giữa ngã ba đường vào thời kỳ Bắc thuộc mới và kéo dài như sinh
thời ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch đã cảnh báo.
Trong công hàm gần đây nhất ngày 17/4/2020 gửi
Tổng thư ký LHQ, Trung Quốc đã “cương quyết yêu cầu Việt Nam rút tất cả người
và vật dụng trên các đảo và đá ở Trường Sa”. Rõ ràng, giải pháp đối với Việt
Nam lúc này là phải sớm hội nhập vào không gian Ấn Thái Dương tự do và rộng mở
(FOIP) để huy động bằng được sức mạnh toàn diện của dân tộc và của quốc tế. Khó
có thể tin rằng sự giàn xếp sau hậu trường giữa hai đảng cộng sản về “kinh nghiệm
xây dựng chủ nghĩa xã hội” hay “vận mệnh tương thông, văn hoá tương đồng” có thể
làm thay đổi chính sách “sát ván” của Bắc Kinh đối với Hà Nội.
Càng để lâu tình hình bất định như hiện nay,
Việt Nam càng tiếp tục bị Trung Quốc lợi dụng, thế giới hiểu nhầm. Trung Quốc
đang gấp rút biến các đảo cưỡng chiếm thành chuỗi căn cứ giúp họ có đủ sức mạnh
để cấm đoán tàu bè qua lại. Bắc Kinh hoàn toàn phớt lờ các phản kháng của Hà Nội,
khiến cho sự chia rẽ trong nội bộ Việt Nam ngày càng sâu sắc.
Thế giới là bàn cờ vĩ đại mà các cường quốc
thường là những tay “chơi cờ độn nước”. Việt Nam muốn hay không cũng đang trong
bàn cờ chung ấy. Vấn đề là phải thức thời, biết chọn chơi loại cờ nào? “Còn như
vào trước ra sau/ Ai cho kén chọn vàng thau tại mình” (Kiều của Nguyễn Du). Cờ
Tàu, tốt muôn đời vẫn là con tốt, kể cả khi nó chiếu được tướng. Cờ Tây, chơi đến
tận hàng cuối, tốt có thể về hậu. Việt Nam có cơ để trở thành một cường quốc tầm
trung. Nhưng cờ Tây thì phải đi với nhau đến tận cùng mới có kết quả. Phải biết
gắn mình vào thế trận chung với các quân cờ khác, dù đó là vua hay hậu, tượng,
xe, để đi đến thắng lợi.
Có thể chia sẻ với TS. Đỗ Kim Thêm từ “Diễn
đàn Thương mại và Phát triển LHQ” (UNCTAD): Tỉnh thức về thân phận của dân tộc
là vấn đề kiến thức, xác định ý muốn để thay đổi là vấn đề của quyết tâm chính
trị, vấn đề của sự chọn lựa! Chúng ta cùng giúp nhau tỉnh thức trong tình tự
dân tộc. Đất nước đang đứng trước nguy cơ! Hy vọng, hồn thiêng sông núi vẫn phù
hộ cho con dân nước Việt. Đất nước mỗi khi lâm nguy chắc chắn sẽ xuất hiện một
Trần Nhân Tông hay một Lê Thánh Tông, kể cả nếu gốc gác là nông dân thì chí ít
cũng phải có một khát vọng lớn như anh hùng áo vải Nguyễn Huệ.
*
Sự hung hăng của Trung Quốc trong cuộc trường
chinh “Nam tiến” ngày càng đặt Việt Nam trước tình thế không thể kéo dài mãi
chính sách “lửng lơ con cá vàng”. Việt Nam không thể chần chừ giữa ngã ba đường.
Người dân sau đại dịch đang kỳ vọng lãnh đạo sẽ chớp được thời cơ có một không
hai hậu Covid-19 để hành động. Phải khắc phục ngay tình trạng không bình thường
trong nội trị và ngoại giao. Bời những ai quan tâm đến thời cuộc đều lấy làm tiếc,
vì niềm tin của quần chúng vừa mới le lói sau đại dịch nay lại đang mất dần qua
phiên giám đốc thẩm về tử tù Hồ Duy Hải, hay xử sơ thẩm vụ người mẹ đơn thân
đánh BOT Huệ Như.
Liệu cái khung khổ “cùng chung vận mệnh” có
cứu Việt Nam thoát khỏi một cuộc xung đột mới do Trung Quốc gây ra trên đất liền
hoặc ở tận mãi ngoài các đảo xa? Liệu lời kêu gọi phải bám chặt lấy thị trường
Trung Quốc để phát triển có khả thi, khi cả về trình độ marketing lẫn tiền bạc
doanh nhân Việt vẫn còn dưới cơ các nhà buôn Tàu. Nhưng xử lý các vấn đề làm ăn
với Trung Quốc như thế nào khi như chính các chuyên gia phải thừa nhận, chúng
ta chưa có chủ nghĩa dân tộc về kinh tế? Các chuyên gia cảnh báo rằng, bối cảnh
cả chính trị lẫn kinh tế hiện nay khác xa với năm 2000, nhất là giờ đây Trung
Quốc đã chế ngự được Lào và Campuchia, khóa chặt lối ra bán đảo Đông Dương của
Việt Nam.
Để có thêm
thông tin mời xem:
Quyết tâm xây dựng Việt Nam
thành một nước văn minh, giàu mạnh, vươn lên đỉnh cao của thời đại: Diễn văn đọc
tại cuộc mit-tinh lớn ở Hà Nội mừng chiến thắng (Ngày 15 tháng 5 năm 1975).
https://thediplomat.com/2018/12/vietnams-invasion-of-cambodia-revisited/ Vietnam’s Invasion of Cambodia, Revisited
Vài nét về quan hệ Việt Nam
– Liên Xô từ năm 1975 đến năm 1990
The Geopolitics of the
Vietnam War
Richard Nixon, Henry
Kissinger và Sự sụp đổ của Miền Nam
Hội nghị Thành Đô
Việt Nam và Trung Quốc
không còn “thắm tình anh em” vì Biển Đông?
Chiến Tranh Lạnh và Thân Phận
Việt Nam
https://www.rfa.org/vietnamese/news/blog/what-can-vn-do-to-confront-china-in-scs-05042020112008.html Khả năng đối phó của Việt
Nam trước dã tâm của Trung Quốc ở Biển Đông
Đâu là nguyên nhân cuộc chiến
Việt-Trung tháng Hai năm 1979?
Trung Quốc trong trật tự thế
giới
Nguyễn Trần Bạt: Cần bám chặt lấy thị trường Trung Quốc một
cách khôn ngoan để phát triển kinh tế
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét