Sau nhiều nỗ lực về bản thảo và tài chính, cuốn sách thứ bảy trong chuyên đề Tìm lại cội nguồn của nhà nghiên cứu Hà Văn Thùy hôm nay ra mắt bạn đọc. Khác những cuốn trước, viết theo phong cách khảo cứu, cuốn này tác giả sử dụng bút pháp viết sử. Nhận thức là một quá trình. Có thể nói, cuốn này là sự kết tinh, cô đọng những khám phá mới nhất, chính xác nhất về tiền sử người Việt, điều mà tác giả hy vọng sẽ mở đầu cho nền sử học mới của dân tộc.
Thôn Minh Triết xin trân trọng giới
thiệu với bạn đọc Lời nói đầu của tác phẩm.
HÀ VĂN THÙY
Khảo cổ học là khoa học bắt đầu và kết thúc với vật cổ. Một khi không có vật cổ, khảo cổ học chấm dứt! Suốt thế kỷ XX, chúng ta chỉ biết cốt sọ cổ nhất của người Việt tại Sơn Vi 32.000 năm. Những câu hỏi bức xúc được đưa ra: Phải chăng ngưới Sơn Vi là người hiện đại xuất hiện sớm nhất trên đất Việt Nam? Họ từ đâu tới? Không lời đáp! Rồi khi phát hiện bộ xương người Lưu Giang Quảng Tây 68.000 năm và cốt sọ hang Tampa Lin Bắc Lào 63.000 năm, có thêm cật vấn: “Họ là ai, từ đâu ra, có quan hệ thế nào với người Sơn Vi và những người Việt cổ khác?” Khảo cổ học im lặng!
Những
năm cuối thế kỷ XX, bùng nổ thông tin gây chấn động: “Người hiện đại Homo
sapiens xuất hiện ở châu Phi 200.000 năm trước. Khoảng 70.000 năm trước, theo
ven biển Ấn Độ Dương, người từ châu Phi di cư tới Việt Nam. Nghỉ lại ở đây
20.000 năm để gia tăng nhân số, 50.000
năm trước, người từ Việt Nam lan tỏa ra các đảo Đông Nam Á và chiếm lĩnh
Ấn Độ. 40.000 năm trước, do khí hậu phía Bắc được cải thiện, người từ Việt nạm
đi lên khai phá Hoa lục. 30.000 năm trước, từ Siberia vượt qua eo Bering, chinh
phục châu Mỹ…” Giới khảo cổ học choáng
váng. Tuy nhiên, khám phá từ ADN không thể nghi ngờ! Như vậy, thực tế cho thấy,
con người đã có mặt tại Việt Nam từ 70.000 năm trước. Nhưng thổ nhưỡng và khí
hậu khắc nghiệt đã xóa đi mọi dấu vết của họ, khiến cho 40.000 năm chìm vào đêm
tối!
Người
từ châu Phi tới Việt Nam là ai? Chưa bao giờ di truyền học trả lời câu hỏi rất
quan trọng này. Dựa trên bằng chứng khảo cổ là những cốt sọ, nhân học đưa ra
lời đáp: “Vào thời đồ đá, trên đất Việt Nam xuất hiện hai đại chủng Australoid
và Mongoloid. Họ hòa huyết với nhau và con cháu họ hòa huyết tiếp sinh ra bốn
chủng người Việt cổ Indonesian, Melanesian, Vedoid và Negritoid, cùng thuộc
nhóm loại hình Australoid. Sang thời kim khí, người Mongoloid phương Nam xuất
hiện và trở thành chủ thể dân cư. Người Australoid biến mất khỏi đất này không
hiểu do di cư hay đồng hóa?” Đây là khám phá quyết định chiều hướng của lịch
sử: những con người được sinh ra ở Việt Nam 70.000 năm trước làm nên dân cư và
văn minh phương Đông!
Điều
không bình thường là, gần hết thập kỷ thứ hai của thế kỷ XXI, chưa có bất cứ
nghiên cứu nào về khoảng thời gian 40.000 năm “ngoài vòng khảo cổ!” Tổ tiên
Việt đã sống thế nào trong suốt thời gian dằng dặc ấy? Không giải được câu hỏi
này, không thể nói gì về tiền sử người Việt! Khi không có hiện vật khảo cổ, là
lúc trí tưởng tượng bắt đầu. Có thể là kịch bản như thế này:
70.000
năm trước, trên đường sang phương Đông, một dòng người châu Phi theo bờ Tây của
Borneo, bước vào đồng bằng Sundaland, rồi đi lên hướng Bắc. Lúc này đang Thời
Băng hà, mực nước biển thấp hơn hôm nay 130 mét. Đông Nam Á là lục địa mênh
mông. Không hiểu vì sao họ không tỏa ra chiếm lĩnh vùng đất màu mỡ này mà đi
tiếp tới miền Trung Việt Nam rồi dừng lại. Chúng tôi đoán, chỉ đoán thôi, có
khoảng 2000 đến 3000 người thuộc hai đại chủng Australoid và Mongoloid tới được
Việt Nam. Sau hành trình 15.000 năm gian nan, tới đây họ đã gặp “địa đàng ở
phương Đông”với khí hậu ấm áp, rừng cây xanh tươi, nhiều muông thú, hoa trái,
sông suối nhiều ốc, sò, tôm, cá… Những nhóm nhỏ khoảng 15-20 người gặp nhau khi
cùng săn bắn và hái lượm. Tình yêu đến và những đứa trẻ ra đời. Theo năm tháng,
dân số tăng lên. Một số ít sống trong hang động còn phần lớn dựng những túp lều
bằng cây lá dưới tán rừng.
Ban
đầu, theo tập tục truyền lại từ tổ tiên, họ đập vỡ những hòn sỏi, chế tác những
chiếc búa đá cũ dùng cho săn hái. Nhưng rồi, từ cuộc sống định cư, vào thời
gian rảnh rỗi, người đàn bà bắt đầu chăm sóc những vạt rau đầu tiên bằng cách
nhặt bỏ cỏ dại, tưới nước, bón phân... Họ cũng chọn rồi chăm sóc những cây cho
quả bằng cách chặt dây leo, tỉa bớt cành và cây dại xung quanh, cho cái cây
“của mình” nhận được nhiều ánh sáng hơn. Người hái lượm phát hiện ra khoai sọ,
một loại cây cho củ ngon, lành mà lại dễ trồng, rồi kê, cao lương… Cứ như thế,
từng chút một, những vạt rau, những vườn cây quả, những luống khoai lang khoai
sọ ra đời, bổ sung lượng thức ăn quan trọng vào cuộc sống săn hái.
Không
phải khảo cổ mà di truyền học khám phá, trong quá khứ có hai lần số lượng lớn
người rời Việt Nam chiếm lĩnh thế giới. Lần đầu vào 50.000 năm trước, đi ra các
đảo Đông Nam Á và Ấn Độ. Đợt sau, 40.000 năm trước, đi lên Hoa lục rồi sang
châu Âu và qua eo Bering chinh phục châu Mỹ. Di cư là kết quả của bùng nổ dân
số. Vậy thì nguyên nhân nào làm nên hai cuộc bùng nổ dân số vĩ đại trên? Cố
nhiên không phải do lượng thú hoang tăng đột biến, cung cấp nguồn dinh dưỡng
lớn. Chỉ có thể là lượng thức ăn lớn nhận được từ những cây trồng “bán thuần
hóa” đã tạo ra năng lượng giúp cho nhân số tăng nhanh! Vậy là, trong 40.000 năm
âm thầm ấy, người Việt không chỉ săn bắn hái lượm mà còn sở hữu thực vật “bán
thuần hóa” tạo ra khối lượng thức ăn quan trọng. Phương thức sống ấy đi suốt
theo hành trình của người Việt.
Khám
phá cuộc di cư lần thứ nhất, di truyền học phản bác quan niệm của khảo cổ và
nhân học cho rằng “1.500 năm TCN, người Arian xâm lăng Ấn Độ, đẩy người
Indonesian từ đất Ấn sang xâm chiếm Đông Dương.” Khám phá cuộc di cư thứ hai,
di truyền học bác bỏ quan niệm định hình của thế kỷ XX “người từ Trung Quốc đi
xuống làm nên dân cư và văn hóa Việt Nam.”
Năm
2013, nhờ thành tựu kỳ diệu của di truyền học, khoa học tìm ra chủ nhân hang
Điền Nguyên, xác nhận việc người Việt đặt chân tới bờ Nam Hoàng Hà 40.000 năm
trước. Trong khi đó, khảo cổ học, từ khai quật hàng chục di chỉ trên lưu vực
Dương Tử và Hoàng Hà, khám phá 20.000 năm trước, người Việt chế tác công cụ gốm
đầu tiên và 12.400 năm trước thuần hóa thành công lúa nước… Công cụ đá mới, đồ
gốm, kê, lúa, rồi gà, chó, lợn… theo chân người Việt đi lên lưu vực Hoàng Hà,
sáng tạo những văn hóa khảo cổ nổi tiếng Giả Hồ, Ngưỡng Thiều... Tại Ngưỡng
Thiều, người Việt cổ mã di truyền Australoid hòa huyết với người Mongoloid sống
du mục trên bờ Bắc, sinh ra người Việt hiện đại Mongoloid phương Nam. Người
Mongoloid phương Nam tăng số lượng, trở thành chủ thể dân cư lưu vực Hoàng Hà…
Đúng
là, từ giữa thiên niên kỷ III TCN, người lưu vực Hoàng Hà di cư xuống phía Nam.
Nguyên nhân sự kiện này từ đâu? Hầu hết học giả thế giới cho rằng, đó là sự mở
rộng của nông nghiệp. Vậy, động lực nào thúc đẩy con người làm việc đó? Phải
chăng là để thực hiện giấc mơ “khai hóa văn minh?” Hoàn toàn không có chuyện
lãng mạn như vậy! Phải hiểu thực chất của vấn đề, là nguyên nhân lịch sử. Sau
40.000 năm làm chủ Hoa lục, người Việt tạo dựng nhà nước Lương Chử hùng mạnh
với nền văn hóa rực rỡ. Hơn ai hết, họ mong muốn cuộc sống hòa bình. Nhưng rồi
chiến tranh khốc liệt xảy ra khi năm 2698 TCN, những bộ lạc du mục hung hãn
trên bờ Bắc Hoàng Hà do họ Hiên Viên cầm đầu, đánh vào Trác Lộc, chiếm giang
sơn của người Việt, lập nhà nước Hoàng Đế. Hàng triệu người mất đất, phải rời
bỏ ruộng vườn chạy về phía nam. Cuộc chiến khốc liệt và dai dẳng đã hằn lên
những nếp nhăn trong Kinh Thư, cuốn sử mở đầu của Trung Quốc: “Phạt Tam Miêu,
đầy Tam Miêu tam phục, ngũ phục…” “Ngươi phải ghi nhớ, không được để Tam Miêu
quấy rối Trung Quốc!” (Lời vua Nghiêu dạy bề tôi). Đấy là ở thời Nghiêu Thuấn,
“thời đại Hoàng Kim.” Từ sau thời Chu, hàng triệu người Tiên Ti, Hung Nô vào chiếm đất, mặc sức chém giết…
đẩy những đợt sóng người Việt chạy về nam tìm đường sống. Hoàn toàn không phải
chuyện mở rộng nông nghiệp lãng mạn mà là cuộc chạy trốn cái chết. Đó là buổi
giao thời, khi người Việt hiện đại Mongoloid phương Nam – lớp con cháu đi làm
ăn xa, từ Núi Thái-Trong Nguồn trở về, thay máu đồng bào và đổi mới kỹ năng
sống, đưa tộc Việt từ văn minh đá chuyển sang văn minh kim khí của thời đại
Phùng Nguyên-Đông Sơn rực rỡ.
Cuốn
sách trong tay sẽ nói với bạn về một lịch sử chưa từng biết: rời đất Việt Nam,
người Việt chiếm lĩnh thế giới, làm nên phần lớn loài người. Tiếng Việt là chủ
thể làm nên ngôn ngữ Trung Hoa, chữ Việt là chủ thể làm nên chữ viết Trung Hoa.
Những thành tựu rực rỡ của văn hóa phương Đông là sản phẩm sáng tạo của người
Việt…
Chân
thành cảm ơn bạn tôi, Tiến sỹ Đào Trọng Liên trợ giúp tiền in cuốn sách này.
Sài Gòn, Hè năm 2019
Hà Văn Thùy
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét