Gần đây trong khi toàn thế giới đang tập trung mọi nguồn lực
để chống đại dịch covid thì Trung Quốc lại lợi dụng tình thế, gây hấn với Việt Nam
trên biển Đông. Nhà văn Hoàng Quốc Hải có một bài viết công phu trên trang mạng
TỄU, nhà nghiên cứu kinh tế Trần Đình Thiên có cuộc trả lời phỏng vấn xoay
quanh chủ đề, và nhà Trung Quốc học Nguyễn Hải Hoành biên dịch một bài nghiên
cứu có tính tổng hợp. Bạn đọc có thể thấy ở đây mỗi tác giả có một chủ kiến
khác nhau, nhưng tôn trọng các tác giả, THÔNMINHTRIẾT gộp lại đăng cùng lúcgửi
đến bạn đọc những gợi cảm tùy ý.
HOÀNG QUỐC HẢI
Kính gửi nhà văn Ngô Thị Kim Cúc.
Bạn có nhã ý mời tôi viết bài cho ‘’Văn
Việt’’với một số câu hỏi gợi ý đề tài. Trong đó có phần về lịch sử rất thú vị. Đang chuẩn bị viết thì trên mạng xã hội rộ lên
các đề xuất với Nhà nước, nhân dịp nạn Covid-19 xuất xứ từ Vũ Hán, làm cho nền
kinh tế Trung Quốc chao đảo, khiến ta cũng đứng ngồi không yên.Vì rằng, nhiều
ngành sản xuất của ta có tới 80% nguyên liệu phụ thuộc vào Trung Quốc. Hiện nay
nguyên liệu dành cho sản xuất chỉ dự trữ được 2 tháng. Qúa hạn đó, hàng loạt
nhà máy đóng cửa.Tức là nếu Trung Quốc có sự cố, thì cả nhập lẫn xuất của kinh
tế Việt Nam đều lao đao.
Chuyên gia
kinh tế, bà Phạm Chi Lan gợi ý Nhà nước phải nhanh chóng nắm lấy cơ hội này, cơ
cấu lại nền kinh tế, phải đa phương và đa dạng hóa các đối tác đầu vào cũng như
đầu ra.
Thật vậy, ngoài Trung Quốc, ta còn nhiều đối
tác tiềm năng như Hoa Kỳ, Nhật Bản. Đặc biệt ta vừa ký hiệp định EVFTA với EU.
Đó là cơ hội vô cùng thuận lợi cho ta thoát khỏi sự phụ thuộc vào nguồn nguyên
liệu từ Trung Quốc.
Nhiều
người cho đó là cơ hội "Thoát Trung’’. Đúng vậy, đây chính là cơ hội vàng
để ta gỡ cái ách phụ thuộc vào nền kinh tế Trung Quốc từ mấy chục năm nay. Việc
này nếu Nhà nước quyết liệt cùng với khối doanh nghiệp trong và ngoài quốc
doanh, trong ngắn hạn ta có thể làm được. Nhưng chớ để khối quốc doanh làm chủ
đạo, sẽ thất bại, sẽ mất cả chì lẫn chài, không chừng còn bị cột chặt vào Trung
Quốc như một cái đuôi.
Tuy nhiên, muốn ‘’Thoát Trung’’chỉ riêng về
kinh tế không thì sẽ không bao giờ thoát nổi. Muốn ‘’Thoát Trung,’’ là phải
thoát về mặt văn hóa, về ý thức hệ, về tư duy độc lập.
Vấn đề là ở chỗ đó, chỉ khi nào ta có tư duy
độc lập, khi đó ta mới thoát ra khỏi sự ràng buộc vô hình của văn hóa Trung
Hoa. Chỉ khi ấy,ta mới thật sự là ta.
Bạn Ngô Thị Kim Cúc thân mến,nhân chuyện
này,tôi xin chuyển đề tài sang việc ‘’Thoát Trung’’.Nhưng thoát về ý thức hệ,về
tư duy độc lập; nói chung là phải ‘’Thoát Trung’’ về mặt văn hóa.
Xin thưa, đây là việc làm nghiêm túc có quan
hệ đến vận mệnh của cả dân tộc,chứ không phải chuyện phiếm nơi bàn trà,hoặc
chém gió nơi xó bếp.Và cũng nói luôn, bàn đến vận mệnh đất nước là quyền của
mọi công dân theo đúng Hiến Pháp hiện hành, không ai được phép độc quyền yêu
nước.
Nhớ khi ta toàn thắng quân xâm lược nhà Minh
thế kỷ 15, Nguyễn Trãi viết ‘’Bình Ngô đại cáo,Người đã khẳng định: “Duy ngã
Đại Việt chi quốc. Thực vi văn hiến chi bang.Sơn xuyên chi phong vực ký
thù.Nam-Bắc chi phong tục diệc dị.’’ (Nghĩa là: Như nước Đại Việt ta từ
trước.Vốn xưng nền văn hiến đã lâu. Non sông bờ cõi đã chia. Phong tục Bắc-Nam
cũng khác. – (Ngô Tất Tố dịch).
Phong tục chính là biểu hiện của văn hóa.
Điều Nguyễn Trãi khẳng định, có nghĩa là văn hóa nước ta với văn hóa Trung Hoa
là hai dòng chảy khác nhau. Độc lập về bờ cõi, phải đi đôi với độc lập về văn
hóa mới là một quốc gia độc lập hoàn chỉnh. Không những thế, Nguyễn Trãi còn
khẳng định nước ta là một nước văn hiến. Quốc gia ấy ‘’Cùng với Hán – Đường
hùng cứ một phương’’.
Tiếc rằng tinh thần độc lập tự chủ đó, cứ
dần dần mai một, do chính quyền các đời nối tiếp không đủ tầm vóc duy trì, và
từng bước ảnh hưởng nặng nề văn hóa Trung Hoa.Đặc biệt từ khi giới cầm quyền
Việt Nam thiên trọng về Nho giáo,rồi độc tôn Nho giáo,tiến tới nô lệ cho Nho
giáo cả về tư duy triết học lẫn nhân sinh quan xã hội.
Vậy là cả thế giới quan lẫn nhân sinh quan của tầng lớp trí thức phong kiến Việt Nam, từ nhà Lê kéo tới nhà Nguyễn (hơn 500 năm) đều bị trói chặt vào tư duy Khổng-Mạnh.Do đó,tuy ta có thắng quân xâm lược nhà Minh,nhà Thanh, độc lập tự chủ về mặt bờ cõi,nhưng cả thế giới quan và nhân sinh quan vẫn bị chi phối bởi Nho giáo.Đặc biệt nhà Nguyễn,không chỉ ảnh hưởng mà còn sao chép từ việc tổ chức bộ máy đến luật lệ,thậm chỉ cả y phục và tên làng xã, từ tên Nôm phải đổi thành tên Hán-Việt. Ví dụ, Kẻ Mơ phải đổi thành Hoàng Mai. Làng Neo đổi thành Xuân Nẻo v.v… Nghiã là mọi thứ nhà vua đều bắt toàn dân toa rập theo kiểu người Trung Hoa, như một tên đầy tớ mong bắt chước sao cho thật giống ông chủ.Sở dĩ có tình trạng thảm hại trên,là bởi giai cấp thống trị nước ta không đủ tầm vóc văn hóa để thoát Trung từ cái nhỏ nhất.
Vậy là cả thế giới quan lẫn nhân sinh quan của tầng lớp trí thức phong kiến Việt Nam, từ nhà Lê kéo tới nhà Nguyễn (hơn 500 năm) đều bị trói chặt vào tư duy Khổng-Mạnh.Do đó,tuy ta có thắng quân xâm lược nhà Minh,nhà Thanh, độc lập tự chủ về mặt bờ cõi,nhưng cả thế giới quan và nhân sinh quan vẫn bị chi phối bởi Nho giáo.Đặc biệt nhà Nguyễn,không chỉ ảnh hưởng mà còn sao chép từ việc tổ chức bộ máy đến luật lệ,thậm chỉ cả y phục và tên làng xã, từ tên Nôm phải đổi thành tên Hán-Việt. Ví dụ, Kẻ Mơ phải đổi thành Hoàng Mai. Làng Neo đổi thành Xuân Nẻo v.v… Nghiã là mọi thứ nhà vua đều bắt toàn dân toa rập theo kiểu người Trung Hoa, như một tên đầy tớ mong bắt chước sao cho thật giống ông chủ.Sở dĩ có tình trạng thảm hại trên,là bởi giai cấp thống trị nước ta không đủ tầm vóc văn hóa để thoát Trung từ cái nhỏ nhất.
Vua Minh Mạng bắt phụ nữ cả nước phải vận áo
quần cho giống với người Trung Hoa, rất may là nhân dân ta đủ thông minh để âm
thầm chống lại, nhằm bảo tồn sắc thái dân tộc.Cho dù đã hai lần nhà vua xuống
dụ khiển trách quan lại từ Linh Giang (sông Gianh) ra Bắc, vẫn còn để dân chúng
mặc “quần một ống”(váy), mà không chịu cải đổi cho có mĩ quan như người Bắc
quốc.
Lịch sử nước ta phải thừa nhận Minh Mệnh là
một vị vua giỏi.Thời Minh Mệnh trị vì địa vị nước ta nổi nhất Đông Nam Á, cường
thịnh nhất Đông Nam Á; và bờ cõi cũng rộng lớn nhất so với trước kia và cả ngày
nay. Tuy vậy, vua Minh Mệnh cũng không đủ tầm vóc để vượt khỏi tư duy
Khổng-Mạnh.
Trái lại, người dân có ý thức tự bảo tồn văn
hóa dân tộc, cho nên tới trước 1945, trên 90% phụ nữ phía bắc nước ta vẫn còn
vận váy. Đặc biệt phụ nữ nông thôn thì 100% vận váy. Chính vì có sức mạnh văn
hóa dân tộc tiềm ẩn trong nông thôn, nên dù có trải qua đêm trường Bắc thuộc,
thực dân Trung Hoa cũng không tài nào đồng hóa nổi nhân dân Việt Nam.
Thật vậy, ngoài cái rừng phong tục, chúng ta
còn có ngôn ngữ, huyết thống, truyền thống, lịch sử và nhiều thứ khác nữa vẫn
được nhân dân, đặc biệt là người dân trong các làng xã bảo tồn; mà mỗi làng xã
tựa như một pháo đài bất khả xâm phạm. Bọn thực dân nắm quyền cai trị, chỉ có
một dúm quan lại người bản xứ làm tay sai cho chúng tại các lỵ sở làm các công
việc hành chính,còn nông thôn vẫn giữ được tính độc lập tương đối.
Có một chuyện hết sức cảm động, và cũng là
một tấm gương về bảo tồn văn hóa dân tộc, để giữ gìn quốc thể. Đó là vào khoảng
năm 1788, khi biết ngôi nước của mình bị lung lay, vua Lê Chiêu Thống bèn chạy
sang Tàu, cầu cứu nhà Mãn Thanh. Trong số các cận thần tòng vong có Lê
Quýnh.Nhưng khi quân Thanh bị vua Quang Trung đánh bại.Và Càn Long cũng thấy
sức mạnh của Đại Việt lúc này là không thể xem thường.Nên Càn Long đã chính
thức giao thiệp với Quang Trung mà coi vua tôi Lê Chiêu Thống như những kẻ tị
nạn chính trị.Họ chu cấp cho Lê Chiêu Thống còn tạm được, nhưng những người
tòng vong bị đuổi về một miền quê xa xôi,cấp cho đất đai tự cấy trồng lấy mà
sinh sống.Biết thân phận của kẻ sa cơ, nên họ cũng chẳng phản ứng gì.Nhưng khi
nhà Thanh bắt họ phải gọt tóc và thay đổi y phục, cho giống với dân Tàu thì họ
không chịu.Lê Quýnh đã phản ứng quyết liệt,không cho chúng đụng đến thân thể
mình.Ông nói:’’Ngã bối đầu khả đoạn,phát bất khả thế.Bì khả tước,phục bất khả
dịch dã’’( nghĩa là-Có thể chặt đầu ta,nhưng không thể cắt được tóc ta.Có thể
lột da ta,nhưng không thể bắt được ta phải cải đổi y phục.)Đương nhiên là giặc
giết Lê Quýnh.
Lê Quýnh nhẹ dạ mà nhất thời chịu tiếng ngu
trung,nhưng trước sau ông vẫn ý thức được mình là người Việt Nam, phải bảo vệ
văn hóa Việt Nam. Do vậy, lịch sử nước nhà không chỉ cảm thông mà còn kính
trọng ông như một người yêu nước-người có lòng tự trọng dân tộc,người biết giữ
gìn quốc sỉ.
Thật vậy, nước Việt Nam sở dĩ hiên ngang tồn
tại cho tới ngày nay, là nhờ nhân dân có ý thức lưu giữ và biết bảo vệ nền văn
hóa dân tộc. Khác xa với những kẻ vong bản làm tay sai cho giặc,luôn thỏa hiệp
với giặc, thậm chí vào hùa với giặc, tiếp tay cho giặc để mạt sát nền văn hóa
của chính tổ tiên mình.
Việc không thủ tiêu nổi nền văn hóa Việt Nam,
khiến người Tàu đến nay vẫn còn hậm hực. Ta nhớ,vụ giàn khoan HD-981 xâm phạm
vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam năm 2014, tờ Hoàn Cầu thời báo, phụ bản của
Nhân Dân nhật báo đảng cộng sản Trung Quốc lên tiếng than vãn:’’Không hiểu tại
sao tổ tiên ta trước đây lại không đồng hóa được người Việt Nam. Nếu đồng hóa
được họ, thì Biển Đông bây giờ còn kẻ nào dám tranh chấp với Trung Quốc.’’Ôi,
giọng lưỡi kẻ xâm lăng!
Rút kinh nghiệm đó, nhà cầm quyền Trung Quốc
đang hối hả đồng hóa người Uygur (Duy-ngô-nhĩ). Duy-ngô-nhĩ mới bị nhà Thanh
thôn tính năm 1785. Nước này có diện tích tới 1.600.000 km2, có biên giới với 8
quốc gia như Trung Quốc, Ấn Độ, Nga…Vì là miền đất mới chiếm được, nên Càn Long
cho tên gọi Tân Cương.Tức biên cương mới.Tên này được đặt vào năm 1821.
Còn như Tây Tạng thì mãi 1950,Trung Quốc mới
đem quân vào thôn tính. Đây là một quốc gia Phật giáo lâu đời, coi việc tu
dưỡng tâm linh là mục đích tối thượng của cả dân tộc, nên việc binh bị là thứ
yếu. Vì vậy, họ không đủ tiềm lực quân sự chống lại đội quân xâm lược Trung Hoa
với cả một biển người hung bạo.
Hai dân
tộc này đang bị đồng hóa với tốc độ chóng mặt. Ví dụ năm 1949, số lượng người
Hán ở Tân Cương mới chỉ có 4% thì năm 1995, người Hán chiếm tỉ lệ 46%, năm 2000
người bản xứ chỉ còn chiếm 46%, người Hán 54%. Nhưng hiện nay như Phương Tây
thông báo, thì họ lập những trại tập trung cực lớn, nhốt cả triệu đàn ông
Duy-ngô-nhĩ vào đó lấy cớ là dạy nghề. Còn các gia đình người Duy-ngô-nhĩ thì
cho lính Trung Quốc đến ở cùng.
Chính sách man rợ này y hệt lũ giặc Minh tàn
bạo đối với nhân dân ta thế kỷ 15.( Ai muốn rõ hơn tội ác của giặc Minh, xem
trong Đại Việt sử ký toàn thư).Nghĩa là chúng sát phu hiếp phụ,nhằm thay máu
người bản địa.
Còn đối với Tây Tạng, họ đang cải đổi truyền
thống tâm linh của xứ này.Tức là vị Đại Lạt Ma, theo truyền thống là sau khi
tìm được hậu thân của Ngài.Tức là chờ Ngài tái sinh ở đâu đó.Có thể là trên đất
Tây Tạng,cũng có thể là ngoài Tây Tạng.Vì thế việc tìm kiếm hậu thân của Ngài
với cả dân tộc,như thể chuyện mò kim đáy biển.Nhưng chưa bao giờ người Tây Tạng
lại không tìm ra vị thủ lĩnh tôn giáo của mình.Ngày nay Đức Đạt Lai Lạt Ma đang
sống lưu vong,nhưng vẫn giữ vị trí là bậc tối đẳng tối giác của nhân dân Tây
Tạng.
Dường như nhà cầm quyền Trung Quốc không chịu
nổi việc này.Họ đang tìm cách thay thế chế độ hậu thân.Trước mắt,các cấp trưởng
trong tổ chức hành chính của Tây Tạng,họ đã thay bằng người Hán,và các chức sắc
tôn giáo Tây Tạng cũng có người Hán kèm cặp.Và họ cũng cấp tập di dân Hán tới
Tây Tạng.Dần dần họ không chỉ pha loãng máu của các dân tộc Hồi ( người
Duy-ngô-nhĩ theo đao Hồi), Tạng; biến họ thành dân tộc thiểu số, mà cơ bản là
họ triệt tiêu văn hóa của các dân tộc này.Vì chỉ có thủ tiêu nền văn hóa của
một dân tộc, thì mới biến được họ thành tộc người khác.
Việc biến các dân khác thành dân của mình,
người Trung Quốc có kinh nghiệm từ cả mấy ngàn năm rồi.Nghĩa là việc đầu tiên
phải tước đoạt cho bằng được văn hóa của kẻ bị chinh phục,khiến dân đó chỉ còn
cái thân xác rỗng tuyếch; từ đó họ mới thổi hồn Trung Hoa vào.Và chỉ vài thế hệ
sau, dân đó tự nhận tổ tiên mình là Hoa Hạ hoặc Hán.Ví dụ sinh động nhất là từ
thế kỷ thứ 12 trở về trước,người Trung Hoa khốn đốn với các dân tộc phương
Bắc,mà họ gọi xách mé là ‘’Rợ Hồ’’.Đến nỗi nhà Tần phải đắp Vạn lý trường thành
để ngăn chặn sự xâm nhập của người phương bắc.Nhà Hán phải đem cả cung phi nhan
sắc bậc nhất là nàng Chiêu Quân sang cống cho người Hồ, để mua lấy sự yên
ổn.Thế kỷ thứ 10-12 hết người Liêu đến người Kim chèn ép.Nhà Tống phải nhận
triều cống thường niên,phải cắt đất cho nhà Kim để cầu hòa;thậm chí vua nhà
Tống phải chấp nhận gọi Kim Ai tông là bá phụ ( bác-anh của bố),trong khi cậu
vua nhà Kim nhóc con này mới 12 tuổi. Sang thế kỷ 17, người Kim đánh bại nhà
Minh lập ra nhà Mãn Thanh.
Nhà Thanh thống trị Trung Hoa từ năm 1649
đến cách mạng Tân hợi (1911),Trung Hoa mới trở thành Trung Hoa dân quốc.Nhưng
năm 1939,nước Nhật Bản chiếm đóng Mãn Châu, đó là đất cũ của người Thanh,lập ra
Mãn Châu quốc.
Từ tháng 10/1949, Mãn Châu trở thành các
tỉnh cực bắc của Trung Hoa.Nếu tính đến 1966,ngày 29 tháng 8 là ngày nhà văn
Lão Xá nhảy xuống hồ Hòa Bình ở Bắc Kinh tự tử trong thời Cách mạng văn hóa,
thì chỉ có 17 năm mà người Trung Hoa làm tiêu tan cả một nền văn hóa của người
Mãn. (Trong khi người Mãn thống trị Trung Hoa tới 262 năm mà vẫn trắng tay.
Không những mất hết mà còn bị đồng hóa thành giống dân khác ).Lão Xá chết là
bởi ông không chịu nổi sức ép và cả sự kỳ thị của người Hán. Lão Xá chết,có
nghĩa là nền văn hóa của người Mãn cũng cáo chung.Lão Xá là người cuối cùng
viết tiểu thuyết bằng ngôn ngữ Mãn.Độc giả Việt Nam hẳn còn nhớ tiểu thuyết
‘’Tường Lạc Đà’’ nổi tiếng của ông.
Vậy đừng có ai mơ hồ về lòng tốt của nhà cầm
quyền Trung Hoa về tất cả mọi phương diện. Họ chưa hề hợp tác với ai một cách
trung thực,dù cam kết đến mấy cũng vậy thôi.Các nước xung quanh họ, lớn nhỏ mặc
lòng, họ đều tìm cách gậm nhấm biên giới đất đai của nước láng giềng. Họ kiên
nhẫn đớp từng centimet. Thì cứ quan sát các vùng biên giới Việt-Trung là rõ.
Thật đau lòng, khi ta biết khá nhiều quan chức Việt Nam chỉ biết nước mình
trong các lâu đài hoặc các đô thị sầm uất, hoặc chỉ nhìn thấy hình hài Tổ quốc
trên bản đồ, nhưng cũng chẳng hình dung nổi nó to nhỏ thế nào được ghi chú qua
tỉ lệ xích.
**
Sau 1945, cả dân tộc Việt Nam vùng lên đánh đuổi thực dân Pháp giành độc lập. Đây là cơ hội lớn để dân tộc ta vừa ‘’thoát Pháp’’vừa ‘’thoát Trung’’ một các vĩnh viễn.
Nhưng vẫn không thoát nổi. Vừa tự chủ được nửa nước, thì tư tưởng lụn bại mới của Trung Hoa lại quàng vào dân tộc ta như một cái ách. Điển hình là cuộc ‘’Cải cách ruộng đất long trời lở đất’’. Cuộc cách mạng ruộng đất mang tầm hủy diệt văn hóa và đạo đức truyền thống của dân tộc lớn chưa từng thấy trong lịch sử. Sức tàn phá của nó vẫn còn âm ỉ tới ngày nay. Đó là cái giá phải trả, (đắt khủng khiếp) của một thứ tư duy không độc lập. Nói cho chính xác là tư duy nô lệ. Và nên nhớ, nọc độc tư duy của giới cầm quyền Trung Hoa mọi thời đại đối với nước ta chưa bao giờ giảm thiểu. Sau cú đòn ngầm cải cách ruộng đất, là hai cuộc chiến tranh ở hai đầu đất nước, đều do người Tàu là kẻ thủ ác. Tưởng đây là bài học để giới lãnh đạo nước nhà tỉnh ngộ. Kíp đến các năm từ 1989-1991 khi khối XHCN Đông Âu và Liên Xô tan rã. Đây lại là thời điểm lịch sử có một không hai để Việt Nam thoát ra tất cả mọi thứ trói buộc. Đặc biệt là sự trói buộc về ý thức hệ. Ngày ấy, giới trí thưc Việt Nam đang hồ hởi đón nhận một thời cơ mới, có thể cải đổi vận mệnh dân tộc.
Than ôi! Cái thời cơ ấy chẳng bao giờ tới
nữa, bởi nó đã kịp trùm chụp lên đầu cả một dân tộc bằng ‘’Mật ước Thành
Đô’’.Luồng gió độc hại ấy ầm ầm thổi tới,làm héo úa cả một đất nước vĩ đại,
đang có đủ cơ hội trở thành một quốc gia hùng cường.
Mật ước Thành Đô treo số phận dân tộc ra sao, tới nay tròn 30 năm, trên 90 triệu dân này chưa hề biết một tẹo nào, trừ một chi tiết được hé lộ qua hồi ký của Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Trần Quang Cơ. (Đó là trong Hội nghị Thành Đô, Trung Quốc ép ta phải ký một số điều khoản mà theo Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch là không thể chấp nhận được. Ông đề nghị phía ta nên khước từ để giữ tư thế một nước có chủ quyền. Nhưng lãnh đạo đoàn ta là các ông Nguyễn Văn Linh (Tổng bí thư Đảng cộng sản VN), Đỗ Mười, (Thủ tướng chính phủ VN) cứ quyết định ký.
Mật ước Thành Đô treo số phận dân tộc ra sao, tới nay tròn 30 năm, trên 90 triệu dân này chưa hề biết một tẹo nào, trừ một chi tiết được hé lộ qua hồi ký của Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Trần Quang Cơ. (Đó là trong Hội nghị Thành Đô, Trung Quốc ép ta phải ký một số điều khoản mà theo Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch là không thể chấp nhận được. Ông đề nghị phía ta nên khước từ để giữ tư thế một nước có chủ quyền. Nhưng lãnh đạo đoàn ta là các ông Nguyễn Văn Linh (Tổng bí thư Đảng cộng sản VN), Đỗ Mười, (Thủ tướng chính phủ VN) cứ quyết định ký.
Thất vọng, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ
Thạch buồn bã giơ hai tay lên trời than: “Thế là lại Bắc thuộc lần thứ V rồi!”
Tại sao lại đến nông nỗi này? Có gì khó hiểu đâu. Chung qui cũng bởi tầm nhìn
không vượt thoát ra khỏi lối mòn, không lấy Tổ quốc và dân tộc làm mục tiêu
trước hết và trên hết, nên cứ phải dựa dẫm thôi. Thậm chí dựa vào chính kẻ thù
của dân tộc, mà bàn tay sắt máu của chúng sát hại đồng bào mình còn chưa kịp
lau khô. Có người hỏi, đất nước ta hiện dẫn đầu Đông Nam Á, kể cả châu Á về tốc
độ tăng trưởng GDP, và như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thì:’’Cả thế giới bị
mây đen che phủ, riêng bầu trời nước ta sáng sủa’’.Như vậy thì văn hóa Việt Nam
đáng tự hào lắm chứ. Nào là các cuộc thi học sinh giỏi quốc tế, đoàn Việt Nam
luôn xếp thứ hạng cao. Nào giáo sư toán học Ngô Bảo Châu là người trẻ nhất nhận
giải thưởng toán học Field-một giải thưởng danh giá của giới toán học toàn thế
giới.
Và cũng là lần đầu tiên ở nước ta, có một
đương kim thủ tướng (Nguyễn Tấn Dũng) ra tận sân bay đón một tân khoa trẻ măng
(Ngô Bảo Châu), khi vị tân khoa đó về thăm nhà. Đúng là suốt hai nhiệm kỳ làm
thủ tướng, ông Dũng lần đầu tiên (và cũng là duy nhất) thể hiện một hành vi từa
tựa một người có văn hóa. Những thành tựu vừa kể đều rất đáng tự hào, nhưng
những thứ đó chưa đạt tới tầm chiến lược vĩ mô về văn hóa của một quốc gia.
Chưa đủ sức tự vệ lâu dài trước sức công phá của cơ man nào là đối thủ. Nhiều
người còn lo lắng cho rằng, nền văn hóa Việt Nam chưa bao giờ mong manh và bị
Trung Quốc chế áp mãnh liệt tới thô bạo như hiện nay. Nhiều người cùng quan
điểm với nhận thức này. Nhưng cũng không ít người cho nhận thức đó có chiều
hướng bi quan. Vâng, ta khoan phê phán, mà hãy bình tĩnh xem xét vấn đề một
cách thật tỉnh táo,thật thấu đáo, thật là nhân văn, khoa học, nhưng cũng thật là
quốc tế trên bình diện một thế giới phẳng. Tuyệt đối không sa đà vào tính kỳ
thị hoặc dân tộc cực đoan.Nhưng phải căn cứ trên thực tế những gì đang diễn ra
hằng ngày trên đất nước chúng ta từ vài chục năm nay, có tham chiếu quá khứ, có
dự báo tương lai.
Vậy những gì khiến ta phải lo lắng?-Với
trách nhiệm là một công dân đã tham gia tới 3 cuộc chiến tranh (chống xâm lược
Pháp; chống can thiệp Mỹ; chống xâm lược bành trướng Trung Hoa), tôi thật sự lo
lắng cho tương lai của nền văn hóa Việt Nam đang có nguy cơ bị biến chất, kiểu
biến đổi gien, khiến không phải một mai một chiều mọi người đều nhận ra gương
mặt thật của kẻ thủ ác. Những đề cập sau đây là nhận thức của riêng tôi, có thể
nhiều người không đồng tình. Ai đó không đồng tình, cứ bình tĩnh trao đổi trên
cơ sở đối thoại bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau. (Xin lỗi, tôi nói trước, tôi
sẽ không đối thoại mang tính phi học thuật, phi văn hóa) .
Mời các bạn hãy cùng tôi khảo sát một vài
tiệm sách trong các thành phố lớn.Sách nhiều vô số kể.Nhiều tác phẩm của các
tác giả trong và ngoài nước, trước đây bị cấm xuất bản, nay thì in thoải mái. Đặc
biệt, tất cả các loại sách của Trung Quốc thì thượng vàng hạ cám, không gì của
Trung Quốc là người ta không in. Loại sách vô cùng độc hại là mê tín, dị đoan, phong
thủy, thần bí…trước đây cấm ngặt, nay mặc sức tung hoành. Loại kiếm hiệp cổ, cận,
hiện đại từ Phong thần đến Chinh Đông, Chinh Tây và Chưởng hiện đại. Bói toán
thì từ Qủy Cốc, Chu Dịch,Tứ trụ đên Tử vi đẩu số,Tử vi hàm số…cơ man nào là
sách thuộc các loại này.Từ triết học, lịch sử nghiêm túc đến các loại nhố nhăng
giả cầy đều nghiễm nhiên chiếm phần lớn thị phần sách Việt Nam. Sách khảo cứu, sách
chân dung nhân vật, tiểu thuyết đủ mọi trường phái…Nói chung các loại sách từ
nghiêm túc đến độc hại; nhưng đa số là độc hại và vô bổ, chúng chiếm tới non
nửa tổng số sách đang lưu hành trên thị trường sách nước ta hiện nay.
Như vậy là nước ta đã bỏ ra không biết bao
nhiêu tiền của, tự in những thứ nọc độc đó để đầu độc các thế hệ người Việt
mình. Đây là sự tiếp tay hết sức ngoạn mục cho giặc ngoài. (Hẳn mọi người thấy
hiện nay mọc ra rất nhiều nhà phong thủy giả cầy, nhiều nhà tử vi bói toán kiểu
thầy bói vỉa hè. Họ tự do gieo rắc mê tín khiến nhiều dân lành khốn đốn vì họ. Nhiều
người chết trong ngu tín mà không có định chế xã hội nào khống chế kẻ gây ác. Mà
nguồn tội ác đó lại từ sách nhảm nhí Trung Hoa.)
Trên kia là điểm về thị phần sách, nay thử điểm về thị phần phát sóng trên các kênh truyền hình của nước ta từ Đài truyền hình Trung ương đến Đài Truyền hình của hơn 60 tỉnh,thành phố.
Trên kia là điểm về thị phần sách, nay thử điểm về thị phần phát sóng trên các kênh truyền hình của nước ta từ Đài truyền hình Trung ương đến Đài Truyền hình của hơn 60 tỉnh,thành phố.
Suốt 24/24 giờ, mọi người thử mở xem, có lúc
nào vắng bóng phim ảnh và các hình ảnh về Trung Quốc trong hệ thống truyền hình
của cả nước? Thậm chí Đài Trung ương có khi cùng lúc tới hai, ba kênh cùng
chiếu phim Trung Quốc.
Còn về phát thanh thì sao? Phát thanh, tuy
ta không tự nguyện dâng sóng cho Trung Quốc như Truyền hình, nhưng họ phát liên
tục bằng tiếng Việt về đủ các thứ vào không gian nước ta. Đặc biệt với các tỉnh
biên giới, từ phim ảnh đến tin tức thì với dân tộc nào, họ phát thanh và thuyết
minh bằng ngôn ngữ dân tộc đó.
Năm ngoái lên Hà Giang, tôi đã ở một bản
người Mông và một bản người Khơ- mú, bà con mở ti vi hoặc mở radio bất cứ lúc
nào cũng có chiếu phim Trung Quốc, lồng tiếng của đúng dân tộc đó,tin tức phát
thanh cũng vậy.
Đối với đồng bào các dân tộc nơi biên giới
giáp với Trung Quốc, từ thập niên 70 của thế kỷ trước, tôi theo xe tuyên truyền
văn hóa của Bộ văn hóa lên biên giới, thì người Trung Quốc đã làm việc này. Hồi
đó, họ mới làm được phần phát thanh, còn truyền hình thì sau này mới có.Tức là
việc xâm thực văn hóa, họ đã làm tới trên 50 năm rồi. Nhưng chưa hề thấy ta có
một chủ trương nào để chống lại sự thôn tính văn hóa này của của người bạn láng
giềng hiểm độc.
Tới đây có người sẽ phản ứng:Trong một thế
giới phẳng thì việc giao lưu văn hóa hoặc giao thoa văn hóa là chuyện bình
thường. Hoặc Đài phát thanh của một quốc gia phát thanh bằng nhiều thứ tiếng
nước ngoài, nhằm giới thiệu văn hóa và các thành tựu khoa học của nước mình với
bạn bè Năm Châu cũng là chuyện bình thường.
Đúng vậy, đó là tiêu chí của một thế giới văn minh. Nhưng ở đây người Trung Quốc đã cư xử một cách không văn minh. Với các dân tộc thiểu số của nước ta, rõ ràng họ đã dùng văn hóa để chiếm lĩnh mất phần hồn của bà con. Vì vậy, hiện nay văn hóa hóa chính thống của nước ta vào các vùng dân tộc ít người, một bộ phận không nhỏ coi như là thứ văn hóa xa lạ đối với họ. Điều đó có khác gì Trung Quốc đã làm việc này với người Mãn, và đang làm với người Duy Ngô Nhĩ, người Tây Tạng. Nhiều người hẳn còn nhớ, trong những cuộc thi của Đài truyền hình Trung ương về ‘’Đường lên đỉnh Olympia’’cách đây khá lâu, với câu hỏi:’’Bạn hãy kể tên một vài anh hùng dân tộc’’. Ứng viên không cần một giây suy nghĩ, đáp luôn:’’-Thưa chị, Quan Vân Trường ạ’’. -Còn ai nữa? Đáp: -’’Thưa chị, Hai Bà Trưng và Trưng Trắc, Trưng Nhị ạ’’. (ở đây em học sinh đó hiểu Hai Bà Trung là một nhân vật. Và Trưng Trắc, Trưng Nhị là một nhân vật khác).
Đúng vậy, đó là tiêu chí của một thế giới văn minh. Nhưng ở đây người Trung Quốc đã cư xử một cách không văn minh. Với các dân tộc thiểu số của nước ta, rõ ràng họ đã dùng văn hóa để chiếm lĩnh mất phần hồn của bà con. Vì vậy, hiện nay văn hóa hóa chính thống của nước ta vào các vùng dân tộc ít người, một bộ phận không nhỏ coi như là thứ văn hóa xa lạ đối với họ. Điều đó có khác gì Trung Quốc đã làm việc này với người Mãn, và đang làm với người Duy Ngô Nhĩ, người Tây Tạng. Nhiều người hẳn còn nhớ, trong những cuộc thi của Đài truyền hình Trung ương về ‘’Đường lên đỉnh Olympia’’cách đây khá lâu, với câu hỏi:’’Bạn hãy kể tên một vài anh hùng dân tộc’’. Ứng viên không cần một giây suy nghĩ, đáp luôn:’’-Thưa chị, Quan Vân Trường ạ’’. -Còn ai nữa? Đáp: -’’Thưa chị, Hai Bà Trưng và Trưng Trắc, Trưng Nhị ạ’’. (ở đây em học sinh đó hiểu Hai Bà Trung là một nhân vật. Và Trưng Trắc, Trưng Nhị là một nhân vật khác).
Cách đây vài tuần, tôi xem trên mạng một
youtube, trong đó Ban giám khảo là một vài nghệ sĩ có tên tuổi quen thuộc làm
giám khảo cho mấy em nhỏ, khoảng từ 7-10 tuổi diễn vai các nhân vật Vương
Triều, Mã Hán, Triển Chiêu trong phim Bao Công xử án của Trung Quốc. Các giám
khảo gật đầu lia lịa và thích thú cười đến nghiêng ngả, khen các em không ngớt
lời.
Qủa thật các em bắt chước các vai diễn trong
phim Bao Công xử án một cách hết sức ngoạn mục, từ lời thoại đến các hành động
phim, nó là một bản sao không thể hoàn chỉnh hơn.
Qua vài ví dụ trên, ta thấy:
1/Một bộ phận không nhỏ người dân tộc thiểu
số của ta chỉ quen với những gì họ tiếp nhận từ cách làm mang tính xâm thực văn
hóa của người Trung Quốc, mà thực chất nó là một thứ xâm lăng văn hóa đúng
nghĩa. Dần dần nó tẩy não cho sạch trơn những gì thuộc về Việt Nam. Cuối cùng
là thân xác đồng bào thì sống trên đất ta, nhưng hồn cốt của họ đã thuộc về
Trung Hoa.
2/Trường hợp chú em học sinh thông minh, học
giỏi dự ‘’Đường lên đỉnh Olympia’’, em thuộc nhân vật lịch sử Trung Hoa rất
chính xác, và tưởng đó là anh hùng dân tộc của nước mình. Còn nhân vật lịch sử
của ta, em nhớ rất mơ hồ.
3/ Với trường hợp mấy thầy nghệ sĩ (phía Nam) làm giám khảo cho mấy bé diễn trò bắt chước các vai diễn trong phim ‘’Bao Công’’của Trung Quốc, thì cả thầy và trò đều tiếp nhận văn hóa Trung Hoa một cách ngọt ngào, hồn nhiên, tự nguyện với vẻ đầy hứng thú. Và sử dụng nó như một thứ hương hỏa, cha truyền con nối một cách hết sức hãnh diện.
3/ Với trường hợp mấy thầy nghệ sĩ (phía Nam) làm giám khảo cho mấy bé diễn trò bắt chước các vai diễn trong phim ‘’Bao Công’’của Trung Quốc, thì cả thầy và trò đều tiếp nhận văn hóa Trung Hoa một cách ngọt ngào, hồn nhiên, tự nguyện với vẻ đầy hứng thú. Và sử dụng nó như một thứ hương hỏa, cha truyền con nối một cách hết sức hãnh diện.
Qua 3 ví dụ trên cho ta rút ra nhận xét: Nhà
cầm quyền Trung Quốc đã sử dụng các loại hình nghệ thuật phức hợp một cách có
hệ thống, thâm nhập vào đầu óc người Việt Nam một cách hết sức tinh vi, nhẹ
nhàng, bền bỉ; khiến bên bị tiếp nhận nhầm tưởng mình đang được thụ hưởng một
thứ văn hóa quen thuộc của chính dân tộc mình. Kỳ thực, ÂM MƯU CỦA NÓ LÀ LÀM MỜ
NHÒE RANH GIỚI, THẬM CHÍ LÀM MÙ NHẬN THỨC CỦA NGƯỜI TIẾP NHẬN. Chừng mực nào
đó, họ đã bước đầu thành công.
***
Vậy qua chiến lược xâm lăng văn hóa tổng lực nhưng trường kỳ này của nhà cầm quyền Trung Hoa, phía nhà nước ta đã làm gì, tựa như tạo ra một chất men đề kháng để tự bảo vệ nền văn hóa của dân tộc mình?
Việc này có thể Nhà nước đã có kế sách,
nhưng chưa công bố công khai.Cũng có thể các nhà hoạch định chiến lược văn hóa
tầm vĩ mô còn đang tư duy.
Nhưng những gì đã thể hiện trên mặt bằng xã
hội, không khỏi gây lo ngại cho người dân. Ví dụ, Cục xuất bản là cơ quan gác
cửa, nhằm ngăn chặn những loại văn hóa độc hại làm suy yếu sức đề kháng văn hóa
của chúng ta. Sự thật các loại sách xuất bản có nguồn từ Trung Quốc đã không
được sàng lọc mà cứ để nó mặc sức tung hoành.Vì thế, có cả sách viết tuyên
dương đám lính Trung Quốc, trong cuộc chiến tranh xâm lược nước ta tháng 2 năm
1979. Đó là tác phẩm lá cải có tựa đề ‘’Ma chiến hữu’’của nhà văn Mạc Ngôn. Điều
hài hước, nhưng cũng là sự nhục nhã vì nó còn được tái bản. Vậy là không hề có
nhầm lẫn. Ngay cả Đặng Tiểu Bình, tên khát máu đối với nhân ta.Trong Hội thảo
về Biển Đông gần đây, có vị tướng quân đội đã nói: «Từng sợi tóc, từng lỗ chân
lông của Đặng Tiểu Bình đều có dính máu của nhân dân Việt Nam.’’
Ấy thế mà Cục xuất bản đã cấp phép cho in
tác phẩm Cuộc đời Đặng Tiểu Bình-nhà kinh
tế chính trị lỗi lạc.Và Đặng Tiểu Bình cha tôi do con gái y
viết. V.v…Ấy là chưa kể mấy tiểu luận gần đây của mấy vị giáo sư, tiến sĩ hết
lời tụng ca Đặng Tiểu Bình. Với người
Trung Hoa, Đặng Tiểu Bình quả là vị cứu tinh của nước họ. Nhưng với dân tộc
Việt Nam, lịch sử Việt Nam mỗi khi nhắc đến cái tên này không có danh xưng nào
khác:’’Tên khát máu trong cuộc xâm lược Việt Nam tháng 2 năm 1979’’.
Napoleon Bonaparte là một nhân vật vĩ đại không chỉ của nước Pháp, nhưng khi ông đem đại binh xâm lược nước Nga, thì Lev Tolstoi mô tả trong tác phẩm Chiến tranh và hòa bình, Napoleon không hơn một tên hề của lịch sử.
Napoleon Bonaparte là một nhân vật vĩ đại không chỉ của nước Pháp, nhưng khi ông đem đại binh xâm lược nước Nga, thì Lev Tolstoi mô tả trong tác phẩm Chiến tranh và hòa bình, Napoleon không hơn một tên hề của lịch sử.
Quan
hệ hai Đảng cộng sản Việt Nam-Trung Hoa tiến triển thế nào mặc lòng, nhưng
không được phép xuyên tạc lịch sử. Không được phép thủ tiêu xương máu của cả
chục vạn người con ưu tú của dân tộc đã hiến cả sinh mạng mình để bảo vệ Tổ
quốc.
Thử hỏi tội ác của Đặng Tiểu Bình xua hơn 60 vạn quân sang xâm lược nước ta tháng 2 năm 1979 ; có khác gì tội ác chiến tranh của tên Minh Thành tổ, xua 85 vạn quân sang hủy diệt nước ta năm 1407, và kéo dài sự chiếm đóng tới 20 năm, cho tới khi Lê Lợi và toàn thể nhân dân ta đánh bại, và sinh phúc cho hơn 10 vạn quân giặc bị bắt, được phép hồi hương trong run sợ.
Thử hỏi tội ác của Đặng Tiểu Bình xua hơn 60 vạn quân sang xâm lược nước ta tháng 2 năm 1979 ; có khác gì tội ác chiến tranh của tên Minh Thành tổ, xua 85 vạn quân sang hủy diệt nước ta năm 1407, và kéo dài sự chiếm đóng tới 20 năm, cho tới khi Lê Lợi và toàn thể nhân dân ta đánh bại, và sinh phúc cho hơn 10 vạn quân giặc bị bắt, được phép hồi hương trong run sợ.
Hãy xem viên tướng Hứa Thế Hữu được Đặng
Tiểu Bình cử làm tổng chỉ huy đội quân xâm lược, dẫn hơn 60 vạn quân vào 6 tỉnh
biên giới nước ta. Y hiệu triệu cho lính tráng dưới quyền: “Là Việt Nam dù già
hay trẻ, nam hay nữ, chúng đều là kẻ địch phải giết hết.(Sát cách vô luận).
Phải phá nát Lạng Sơn thành bình địa, một căn nhà cũng không để lại’’.
Thật là ghê tởm, 572 năm sau mà lời lẽ của
bọn xâm lược nhà Minh và nhà Đặng không mảy may thay đổi. Âý là chưa kế chúng
còn kêu ta là “đồng chí !”
Ghê tởm
hơn nữa, là tháng 3 năm 1979 vì thất bại, nên Đặng Tiểu Bình buộc phải rút
quân, nhưng y còn giữ lại mặt trận Vị Xuyên; trong 10 năm tiếp theo, chúng đã
điều 10/12 đaị quân khu của chúng lần lượt đến khu vực bé nhỏ này làm chiến
trường thực tập; và tại đây chúng đã gây không biết bao nhiêu tội ác man rợ.
Nhưng cũng thật đau lòng, trong khi các nhà
văn Việt Nam viết về cuộc chến tranh vệ quốc này thì không bao giờ được cấp
phép xuất bản. Những từ, hoặc nhóm từ có chữ “Quân bành trướng hoặc Quân xâm
lược Trung Quốc” đều phải kiêng như kiêng húy ông bà mình.
Thấy nói lệnh này được ban ra từ Ban tuyên
giáo. Và đến tận bây giờ vẫn thấy hằng năm Ban tuyên giáo sang Bác Kinh trao
đổi học tập. Có năm, tỉnh Quảng Đông còn phê bình công khai trên mạng rằng,
thời gian mở lớp học đến nơi rồi, mà vẫn chưa thấy phía Việt Nam gửi danh sách
học viên sang ?! Họ dạy các vị học gì vậy? Mà sao quan hệ quốc gia lại để một
tỉnh nó chi phối? Lòng tự trọng dân tộc để đâu? Quốc sỉ để đâu? Xét ra còn thua
cả một kẻ tòng vong như Lê Quýnh. Và không mảy may xứng đáng là con cháu của sứ
thần Giang Văn Minh.
Ngành văn hóa cũng lén lút gửi cán bộ sang
Trung Quốc học tập. Có năm, tất cả các trưởng phòng văn hóa của tỉnh Lạng Sơn
kéo nhau sang Trung Quốc học tập, khi về đến sân bay Nội Bài, trưởng đoàn thu
lại tất cả các tài liệu học tập và ghi chép của từng học viên.
Còn giáo sư tiến sĩ sử học Phạm Hồng Tung
hiện đang giảng dạy tại trường Đại học KHXH & NVQG, chủ biên chương trình
lịch sử trong chương trình giáo dục phổ thông tổng thể; đồng thời là viện
trưởng Việt Nam học và khoa học phát triển thuộc Đại học quốc gia Hà Nội lại có
quan điểm riêng. Theo ông Tung: “Giới sử học hai nước (VN và TQ) nên ngồi lại
thảo luận những nguyên tắc cơ bản để dạy về những vấn đề có liên quan đến lịch
sử hai nước”.Và, ông Tung còn thuyết phục các nhà làm sách: “Cần tuyệt đối
tránh các ngôn từ, hình ảnh lối trình bầy mang tính gây hấn, biểu cảm, miệt thị
như “chúng”, “quân địch”, “giặc”, “dã
man”, “khát máu”… không thể giúp cho các lập luận, phân tích, đánh giá gia tăng
tính thuyết phục, trái lại làm bộc lộ rõ thái độ định kiến, áp đặt, phiến diện,
thiếu khách quan và do đó, thiếu tính thuyết phục”.
Trời cao đất dầy ôi, giáo sư sử học của nước
tôi! Kẻ thù kéo hơn 60 vạn quân vào xâm lược nước mình, và nó luôn mồm vu cáo
là “Cuộc đánh trả tự vệ”; mà bây giờ mình viết sử nước mình lại phải bàn với
nó, (lỡ nó không thèm bàn và cũng không cho phép thì làm thế nào đây giáo sư?)
và phải kiêng các từ như kiêng tên húy tổ tiên dòng họ nhà mình.
Thật bất hạnh cho dân tôi, phải đóng thuế
nuôi bọn “sử nô”, bọn “bút nô” như thế này thì con em chúng tôi làm sao mà có
nổi tư cách một con người!
Thưa quý bạn đọc, với tầm nhận thức như thế,
tư duy như thế của giới cầm quyền và giới trí thức nhà nước, thì làm sao có thể
ngóc đầu lên được mà dám nghĩ đến việc "Thoát Trung về văn hóa”?
****
Muốn "Thoát Trung toàn diện”, không
phải học đâu xa cả. Học chính tổ tiên mình. Đừng có ngạo mạn, coi Tổ tiên mình
là phong kiến, lạc hậu. Muốn thoát Trung toàn diện, trước hết giới lãnh đạo đất
nước phải có tinh thần tự cường dân tộc, tự trọng dân tộc, và phải truyền được
cảm hứng đó cho toàn dân. Phải có tư duy văn hóa ở tầm cao thời đại. Phải cao
thượng, vị tha, tôn trọng tự do và nhân cách của mỗi công dân. Người cầm cân
nảy mực phải biết hy sinh lợi ích cá nhân để vun vén cho lợi ích quốc gia. Tựa
như vua Lê Hoàn hỏi Thiền sư Đỗ Pháp Thuận, làm thể nào để quốc gia trở lên
thái bình thịnh trị.Thiền sư đã trả lời bằng một bài kệ :
Quốc tộ như đằng lạc 國 祚 如 藤 絡
Nam thiên lý thái bình 南 天 裏 太 平
Vô vi cư điện các 無 為 居 殿 閣
Xứ xứ tức đao binh 處 處 息 刀 兵
Tạm dịch:
Ngôi nước như vua dân vấn vít
Muôn dặm trời Nam hưởng thái bình
Chốn miếu đường tham sân xả bỏ
Bốn phương giặc cướp tự nhiên tàn
Ngôi nước như vua dân vấn vít
Muôn dặm trời Nam hưởng thái bình
Chốn miếu đường tham sân xả bỏ
Bốn phương giặc cướp tự nhiên tàn
"Chốn miếu đường tham sân
xả bỏ”, nhà Thiền khuyên như vậy. Nhưng cha con vua Lê Hoàn, Lê Long Đĩnh không
đủ trình độ nhận thức, nên không có khả năng tiếp nhận.
Phải chờ đến nhà Lý, khi các bậc đại trí
thức trong giới thiền sư trực tiếp hoặc gián tiếp tham chính, mới đủ tầm vóc
vực cho thế nước đi lên. Cứ xem cung cách các vị vua nhà Lý vận hành bộ máy nhà
nước, thì đúng như lời khuyên vua Lê Hoàn của Thiền sư Đỗ Pháp Thuận: “Vô vi cư
điện các”. Mọi việc triều đình làm đều xuất phát từ lợi ích của muôn dân.Vì vậy
chỉ trong một thời gian vài chục năm, từ chính trị, kinh tế, giáo dục, binh bị,
ngoại giao không việc nào không đạt thành tựu mang tính chuẩn mực cao.Và chỉ
trong một thời gian ngắn, nhà Lý đã làm cho Đại Việt trở thành một quốc gia
giàu mạnh.Vượt lên cả nhà Tống. Và nhà Tống cũng phải học cách tổ chức việc
binh, việc nông. Sách Vân đài loại ngữ
của Lê Qúy Đôn có chép việc này.Và trong cuốn nghiên cứu về văn hóa, lịch sử
Việt Nam của Toàn quyền Đông Dương Pierre Paskier, về chính sách “ngụ binh ư
nông” của nhà Lý, ông ta viết một câu khá chính xác và có phần tâm phục: “Annam a connu le soldat labour avant la Rome
antique”(Nước Nam đã biết đưa binh lính vào việc cày ruộng trước cả nước La
Mã cổ xưa).
Sang nhà Trần, tuy lấy ngôi nước từ nhà Lý, nhưng
không loại bỏ bất cứ một thành tựu nào của nhà Lý. Vì biết khai thác những ưu
việt từ quá khứ, nên nhà Trần có sức mạnh tăng lên rất nhiều lần. Người khai
sinh ra nhà Trần là thái sư Trần Thủ Độ, cho tới khi về hưu, chưa hề làm bất cứ
một việc gì tư riêng cho mình trên cương vị thái sư. Đến nỗi vợ ông xin cho một
người cháu làm chức câu đương ở cấp xã, tương ứng với chức chủ tịch xã ngày nay
cũng phải được xem xét kỹ lưỡng. Khi trực tiếp gặp; biết người cháu bất tài,
không đảm đương được chức quan nhỏ, ông gọi người cháu vợ ra bảo: “-Thiên Cực
công chúa xin cho mày làm câu đương, nhưng để phân biệt mày là người nhà công
chúa với người thường, tao phải chặt của mày một ngón chân. Người cháu kinh
hoàng không dám nhận. Do vậy, hàng trăm năm sau, không nghe thấy nói quan lại
nhà Trần, kể cả vợ con họ lạm dụng chức quyền để mưu việc riêng. Đó chính là
“Vô vi cư điện các”. Và trong ứng xử với người có lỗi,kể cả lỗi lớn,các vua nhà
Trần cũng hành xử trên tinh thần khoan dung, cao thượng. Chính vì thế, kẻ có
lỗi tự thẹn mà quyết tâm sửa mình.
Đại Việt sử ký toàn thư còn chép lại một
việc khá cảm động.Đó là năm 1285, giặc Mông-Nguyên kéo vào nước ta với lực
lượng kinh hoàng, tưởng như nó sẽ làm cỏ cả nước mình.Nhiều người nhát gan ra
hàng giặc; trong đó có quan lại, tướng tá, thân vương. Nhiều kẻ viết thư xin
hàng, hoặc hẹn ngày ra hàng giặc. Tất cả thư từ đó, Thoát - Hoan để trong một
chiếc tráp. Khi quân ta đánh vào Thăng Long, tướng giặc hốt hoảng tháo chạy về
nước, không kịp đem theo hoặc thiêu hủy. Tới khi dọn lại cung thất, viên quan
nội hầu mở ra xem, thấy nhiều thư xin hàng giặc của các quan lớn trong triều. Y
hốt hoảng, đem dâng lên vua Trần Nhân Tông. Nhà vua không xem, ngài sai đốt đi,
và nói cho mọi người yên tâm: “Thế giặc mạnh, đến ta còn hoang mang, nói chi
người khác”. Thật ra, có thế đưa những kẻ đó vào tội phản quốc để trị. Nhưng
nhà vua đã tha bổng tất cả, trên tinh thần khoan dung, độ lượng.
Sơ qua vài nét trong phép trị nước của hai
nhà Lý-Trần, để biết vì sao họ tạo ra được sức mạnh siêu thần nhập hóa cho toàn
dân tộc. Và suốt 400 năm lịch sử của hai thời đại này, không thấy một bậc quân
vương hoặc bậc trí huệ nào nói đến phải ‘’thoát Trung’’. Bởi cả trong tư duy
lẫn trong vận hành bộ máy nhà nước, họ đã bỏ xa tầm tư duy và hành xử của tất
cả các nước lân bang, kể cả Trung Hoa.
Tư tưởng của nhà Lý,thực ra họ đã vượt qua
tầm thời đại,họ thực hiện đa nguyên chính trị bắt nguồn từ đa nguyên tôn
giáo.Và chắt lọc những gì tinh túy nhất của mỗi dòng đạo đưa vào việc trị
nước.Vì thế mà trong thì ổn định,ngoài thì lân bang nể trọng.Đại Việt nổi lên
thành một quốc gia cường thịnh nhất trong khu vực.
Hãy xem cùng thời đó, nhà Tống suy yếu, lụn
bại. Châu Âu chìm nghỉm trong chiến tranh tôn giáo, mà chỉ trong nội bộ đạo
Ki-tô. Nhưng nhà Lý lại thực thi “Tam giáo đồng nguyên” hết sức êm đẹp.
Sang nhà Trần, khi đế quốc Mông Cổ nổi lên
với Jenzis Khan (Thành-cát Tư-hãn) thì cả châu Âu, châu Á run sợ. Khắp bốn
phương không nước nào dám đương đầu với kỵ binh Mông Cổ. Mênh mông như nước
Nga, cũng bị Mông Cổ thống trị tới mấy trăm năm. Đông dân nhất thế giới mọi
thời đại như Trung Quốc, cũng bị Mông Cổ tiêu diệt và chịu sự cai trị của sắc
dân du mục này tới cả trăm năm.
Nhưng đế quốc Mông Cổ và sau này là đế quốc
Nguyên, trong suốt 30 năm (1258-1288) với 3 lần kéo đại binh vào xâm lược Đại
Việt, đều thất bại cả ba lần. Đặc biệt trong các lần xâm lược 1285 và 1288 là
cực kỳ tàn khốc.Bởi khi đó,Mông Cổ đã đặt nền thống trị yên vị trên đất Trung
Hoa từ 1279.Nên tiềm lực kinh tế và binh bị của họ là vô cùng lớn. Nhưng cuối
cùng, nhà Trần đã chiến thắng. Nước Đại Việt đã chiến thắng kẻ xâm lược hung
bạo nhất hành tinh.
Cho nên ngày nay muốn “Thoát Trung” về mặt
văn hóa, trước hết ta phải hành xử đối với dân mình như một nhà nước có văn
hóa. Phải biết tôn trọng dân, biết khai thác triệt để các tài năng và trí tuệ
tiềm ẩn trong dân. Phải biết yêu cái dân yêu, chứ đừng yêu cái dân ghét. Bởi
vạn sự xuất ư dân. Không có dân đồng hành, tài năng siêu việt đến mấy, nhà Lý
cũng bất lực. Không có dân đồng hành, tướng lĩnh nhà Trần giỏi dang dũng cảm
đến mấy cũng bó tay. Ngược lại, dù người dân yêu nước đến mấy mà gặp vua ngu
hèn, nhẫn tâm ngoảnh mặt làm ngơ trước tai họa và khổ đau của muôn dân; cùng
một lũ khuyển quan, một phường giá áo, túi cơm chỉ biết sống cho mình, vì mình
thì đất nước vẫn suy tàn và sớm muộn cũng rơi vào tay ngoại bang mà thôi.
Chiến lược văn hóa, suy cho cùng là chiến lược về con người, vì con người. Chiến lược phục hưng các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc đã bị đánh cắp, đã làm thất thoát, nay phải phục dựng lại. Đó còn là một nền giáo dục toàn diện, nâng tầm vóc công dân không chỉ có bổn phận là công dân của quốc gia mình, mà còn có bổn phận là công dân của cộng đồng nhân loại. Đó là đạo đức không chỉ là con ngoan, trò giỏi mà còn là tình thương không chỉ dành cho đồng bào mình mà dành cho cả đồng loại.Đó còn là lòng tự trọng cá nhân và tự trọng dân tộc. Đó còn là con người có nhân cách, biết liêm sỉ, không những biết cách bảo vệ danh dự của chính mình, mà còn có nghĩa vụ bảo vệ phẩm giá quốc gia. Nền văn hóa ấy suy cho cùng là xây dựng cho bằng được phẩm cách con người, trên cơ sở đó xây dựng phẩm cách quốc gia. Chứ như nhìn vào thứ hạng hộ chiếu của nước mình hiện nay thì rất khó giải thích, và nói sao cho hết nỗi buồn nhân thế.
Chiến lược văn hóa, suy cho cùng là chiến lược về con người, vì con người. Chiến lược phục hưng các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc đã bị đánh cắp, đã làm thất thoát, nay phải phục dựng lại. Đó còn là một nền giáo dục toàn diện, nâng tầm vóc công dân không chỉ có bổn phận là công dân của quốc gia mình, mà còn có bổn phận là công dân của cộng đồng nhân loại. Đó là đạo đức không chỉ là con ngoan, trò giỏi mà còn là tình thương không chỉ dành cho đồng bào mình mà dành cho cả đồng loại.Đó còn là lòng tự trọng cá nhân và tự trọng dân tộc. Đó còn là con người có nhân cách, biết liêm sỉ, không những biết cách bảo vệ danh dự của chính mình, mà còn có nghĩa vụ bảo vệ phẩm giá quốc gia. Nền văn hóa ấy suy cho cùng là xây dựng cho bằng được phẩm cách con người, trên cơ sở đó xây dựng phẩm cách quốc gia. Chứ như nhìn vào thứ hạng hộ chiếu của nước mình hiện nay thì rất khó giải thích, và nói sao cho hết nỗi buồn nhân thế.
Nhưng trước hết, các quyền con người của
công dân như tự do báo chí, tự do ngôn luận, tự do lập hội, tự do biểu tình, tự
do thư tín và quyền riêng tư v.v…đã được Hiến định từ Hiến pháp đầu tiên năm 1946
và truyền thừa đến tận Hiến pháp 2013 mà tới nay Nhà nước vẫn gác xó. Quốc hội
hoàn toàn bất lực trong việc luật hóa các quyền Hiến định.
Tính từ 1946 tới nay là 75 năm, trọn một
kiếp người (không phải ai cũng sống được tới tuổi này), công dân Việt Nam chưa
được hưởng các quyền cơ bản của mình.Thử hỏi trên thế gian này có chính quyền
nào dám lộng hành, coi khinh dân nước đến như vậy? Nói tóm lại, muốn xây dựng
một chiến lược văn hóa, trước hết Nhà nước phải hành xử như một nhà nước pháp
quyền đúng nghĩa, và phải gương mẫu chấp hành luật lệ, trước hết là tôn trọng
con người và các quyền thuộc về con người.
Muốn kiến tạo được chiến lược văn hóa để
“Thoát Trung”, không thể không dựa hẳn vào những trí thức hàng đầu của dân tộc,
đang sinh sống ở cả trong và ngoài nước. Nhưng phải tôn trọng họ, đặt niềm tin
vào họ. Phải hết sức cầu thị, phải lấy tương lai của Tổ quốc và dân tộc làm mục
tiêu tối thượng. Gạt bỏ mọi vướng mắc trên bước đường cải cách. Ngay cả cơ chế
và thể chế,phải được xem như là phương tiện, là công cụ chứ không phải là mục
đích. Mục đích của chúng ta là văn minh,tiến bộ, tự do, dân chủ, công bằng xã
hội, tiến tới một quốc gia phồn thịnh, một quốc gia đáng sống.
Tôi nhắc lại, “Thoát Trung” không có nghĩa
là bài Trung. Tuyệt đối không sa vào chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Đó là con
đường tự sát của những kẻ thiển cận.Trái lại, phải khai thác, học tập ngay
những kinh nghiệm thành công của Trung Quốc trong phát triển kinh tế. Phải thâm
nhập thật sâu vào thị trường Trung Quốc. Đó là một thị trường khổng lồ, không
chen chân vào được là chưa biết làm kinh tế. Nhưng phải độc lập, không phụ
thuộc, không để họ chi phối.
Và phải loại bỏ ngay những cái dở của Trung
Quốc, như thiếu trung thực trong luật chơi, không tôn trọng cả luật lệ quốc tế
mà chính Trung Quốc cũng là một bên ký kết ;hơn nữa TQ còn là Uỷ viên thường
trực HĐBALHQ. Người TQ cũng hay lừa đối tác, tráo hàng kém phẩm chất, không tôn
trọng các hợp đồng với đối tác. Cái này thì Việt Nam đang là túi đựng khổng lồ
của những thương vụ lừa đảo của Trung Quốc. Cướp thương hiệu, ăn cắp bản quyền,
và quyền sở hữu trị tuệ của đối tác v.v… Đó là những cái dở nhất của Trung
Quốc, nếu không tỉnh táo mà học lấy, sẽ mất hết bạn bè và đối tác.
Ngoài ra, tuyệt đối tránh xa lối tư duy và
thể chế chính trị của giới cầm quyền của Trung Hoa. Bởi nó cực kỳ bảo thủ, cực
kỳ xảo trá. Xét về thực chất văn minh Trung Hoa hiện nay vẫn mang nặng hình hài
của Trung Hoa khoảng trên dưới 3.000 năm trước. Vấn đề này phải xét trên bình
diện triết học, trên nhân sinh quan và thế giới quan của giới thống trị Trung
Hoa.
Hãy so sánh từ triết học cổ đại Hy Lạp đến triết học Phương Tây khoảng
thế kỷ 17 tới nay, có biết bao tiến triển. Còn triết học Trung Hoa vẫn bám lấy
chủ thuyết của Khổng Tử. Tới nay, họ đã đặt được trên 400 viện Khổng Tử trên
toàn thế giới. Nhưng có ai học. Nơi thì hoang vắng, nơi thì nước chủ nhà xua
đuổi, yêu cầu đóng cửa. Về nhân sinh quan thì người Trung Quốc hiện nay vẫn
chưa thoát ra khỏi chế độ quân chủ chuyên chế. Thực chất nhà nước Trung Hoa
hiện nay là nhà nước phong kiến độc tài kiểu mới. Nó không có
một gram cộng sản nào hết.
Và tới tận hôm nay, người Trung Hoa vẫn tự coi mình là giống dân thượng
đẳng hơn mọi giống dân khác. Hệt như Hitler. Giống như Khổng Tử xưa coi dân
Trung Quốc là Hoa Hạ, còn bốn phương ngoài Trung Quốc đều là “Tứ di”. Trong đó
phân ra: Nam man. Bắc địch. Tây nhung. Đông di. Chữ man 蠻có bộ trùng. Chữ địch 夷 có bộ khuyển. Có nghĩa là ngoài
Trung Quốc văn minh, các giống dân khác chỉ thuộc loại sâu bọ, chó má. Đó là
quan điểm phân biệt chủng tộc cực kỳ phản động.
Cho
tới nay, họ vẫn giữ nguyên hệ giá trị phản nhân văn ấy. Hãy xem bài nói chuyện
của viên tướng Bộ trưởng Bộ quốc phòng Trì Hạo Điền về giống dân Trung Quốc và
chiến tranh sinh học để tiêu diệt nhân loại, nhằm chiếm lấy nước Mỹ, làm bá chủ
thiên hạ. Rõ ràng người Trung Hoa đã bắt kịp nhân loại về văn minh kỹ thuật,
nhưng không theo được nhân loại về tính nhân văn cao thượng,lấy tự do, bình
đẳng, bác ái làm tiêu chuẩn hành xử trong kết cấu xã hội.
Cho nên, muốn xây dựng một nền văn hóa dân tộc lành mạnh để ‘’Thoát
Trung,’’phải có tư duy độc lập. Phải lấy truyền thống dân tộc làm điểm tựa,tham
chiếu những nét tiến bộ nhất của các dân tộc văn minh,và tuyệt đối tránh xa mọi
học thuyết chính trị của Trung Hoa thì mới thành công.Thật ra, cứ học được
những bài học thành công và thất bại từ tổ tiên mình, cũng khá phong phú.Và
phải có quyết sách “Thoát Trung hay là chết”.
Nếu lại có đủ tầm vóc mà học được những bài học xây dựng đất nước từ các
thời đại Lý-Trần, thì ta đã dự vào tầm cao văn minh nhân loại của mọi thời đại.
ĐÓ LÀ
THƯỢNG SÁCH ĐỂ THOÁT TRUNG!
ĐÓ LÀ THƯỢNG
SÁCH ĐỂ CHẤN HƯNG ĐẤT NƯỚC!
Hà Nội ngày 9 tháng 3 năm 2020
H.Q.H
ĐÃ ĐẾN LÚC TA PHẢI“THOÁT TA” ?
(Huỳnh
Phan phỏng vấn giáo sư Trần Đình Thiên, VietTimes Thứ Năm, ngày 7/5/2020)
Tôi
sực nhớ đến chuyện, cách đây gần 6 năm, ngày 1/5/2014, khi Trung Quốc đưa Hải
Dương 981 vào gần Hoàng Sa tiến hành thăm dò dầu khí, trên mạng và trong một số
hội thảo người ta đã nói và bàn đến “thoát Trung”.
Vậy
thuật ngữ “thoát ta” của ông khác gì so với “thoát Trung”?
-
“Thoát Trung” là khái niệm có nội hàm phong phú, độ “nhạy cảm” cao, và còn gây
tranh cãi. Tuy vậy, đây lại là một vấn đề đặc biệt quan trọng trong công cuộc
phát triển hiện đại của các nước Đông Á. Do đó, nó cần phải được làm rõ, với
một thái độ khoa học khi thảo luận.
Câu
chuyện sẽ rất dài dòng. Ở đây, tôi chỉ xin nêu một số ý vắn tắt.
“Thoát
Trung” trước hết là thoát khỏi những trói buộc xã hội kiểu Phương Đông truyền
thống, là giải phóng các cá nhân và xã hội khỏi những tập tục trói buộc, những
quy định đè lên họ, làm triệt tiêu khát vọng tự do, dân chủ, nỗ lực sáng tạo
của các cá nhân, kìm hãm sự phát triển nhân cách.
Điểm
lưu ý là những trói buộc đó có hạt nhân “Nho giáo”, bắt nguồn từ Trung Quốc,
lan tỏa và thâm nhập vào các nước châu Á bằng nhiều cách, kể cả thông qua con
đường xâm lược, cai trị và “đồng hóa”, hóa thân thành “cốt cách văn hóa”, thành
“tập tục xã hội” của quốc gia tiếp nhận. Thoát khỏi những thứ “bóng đè” có
nguồn gốc Trung Hoa đó, vì thế, được gọi là “thoát Trung”, thực chất là thoát
khỏi những trói buộc xã hội có gốc gác Trung Hoa, là “tự thoát khỏi chính ta”.
Không
bàn đến “thoát Trung” theo nghĩa thoát khỏi sự đô hộ của các triều đại phong
kiến Trung Quốc, khái niệm “thoát Trung” gần đây còn một hàm ý khác. Đó là
thoát khỏi sự lệ thuộc phát triển, lệ thuộc kinh tế, thoát khỏi “bẫy nợ”, “bẫy
đầu tư” mà Trung Quốc “cài đặt”, thoát khỏi tình trạng thâm hụt thương mại nặng
nề với Trung Quốc…, hiện đang là vấn đề đặt ra cho nhiều nước, kể cả những nước
phát triển.
“Thoát
Trung” ở khía cạnh thoát khỏi cái bẫy phụ thuộc này, mà một bên “cài đặt” là
phía Trung Quốc, là rất không dễ dàng.
Nền
kinh tế Việt Nam, cả mấy chục năm trời, không thể phát triển công nghiệp hỗ trợ
- do quen nhập khẩu “đầu vào” từ Trung Quốc – vừa rẻ, vừa sẵn, lại “tiện
đường”. Thế là có một nền công nghiệp “ăn sẵn”, thiếu hụt nền tảng, chỉ gia
công, lắp ráp. Bây giờ, muốn trỗi dậy, vươn lên trên chuỗi cung ứng cũng rất
khó. Vì doanh nghiệp Việt Nam mấy chục năm không được chuẩn bị năng lực đó, bây
giờ không thể có năng lực đó. Thế là phụ thuộc nặng vào nhập khẩu “đầu vào” từ
thị trường Trung Quốc, và khó thoát bẫy lệ thuộc.
Liệu
ta có thoát được cái bẫy đó không? Rất khó. Nhưng phải khẳng định: tự ta cả
thôi, tất cả tùy thuộc vào chính ta. Ta có thực sự muốn thoát lệ thuộc hay
không, có dám chịu trả giá để có nền kinh tế tự chủ, tự cường – tất nhiên là
tương đối – tất cả là do ta cả. Chả có “ông bạn vàng” nào sẵn lòng giúp ta việc
đó.
Phải
“thoát Ta” để “thoát Trung” chính là như vậy. Đó cũng là cách hiểu “thoát ta”
với sắc thái nghĩa khác “thoát Trung”. Ta phải chịu trách nhiệm với chính ta.
Phải biết cắn răng chịu đau, không hèn, không sợ, để có quyết sách vươn lên tự
chủ thì mới được. Chỉ nói “thoát Trung”, khi gặp khó, toàn đổ cho bên ngoài,
còn mình đúng cả, e rằng nền kinh tế Việt chẳng bao giờ vươn dậy được.
Tôi
không muốn đề cập đến loại ý kiến cho rằng “làm sao có thể thoát Trung” – với
lý lẽ ta ở cạnh Trung Quốc, không thể không đi lại giao thương buôn bán với họ,
phải chung sống với Trung Quốc. Không ai tranh luận học thuật về “thoát Trung”
theo nghĩa thô thiển như vậy, dễ sa vào ngụy biện, và đánh lạc hướng vấn
đề.
Vậy
các nước khác muốn phát triển, nhất là những nước có hoàn cảnh giống Việt Nam,
đã “thoát” như thế nào?
Nhật
Bản thời Minh Trị dùng khái niệm “thoát Á” – cốt lõi là “thoát Nho – thoát
Trung” với nội hàm như trên - để diễn tả quá trình tự mình vượt thoát chính
mình. Nước Nhật phải tự “lột xác”, từ bỏ cả một hệ thống thủ tục, lề thói, nhân
lõi là Nho, là Khổng, bứt khỏi “phương thức sản xuất Châu Á” kìm hãm phát
triển. Họ đã chọn cách phát triển của phương Tây, chọn kinh tế thị trường – tư
bản chủ nghĩa.
Không
riêng gì nước Nhật. Một loạt nước Đông Á đều làm như vậy và thành công. Hồng
Kông, Ma Cao, sau này Đài Loan, đã “thoát Trung” theo cả nghĩa đen và nghĩa
bóng, nhờ đó tiến vượt lên. Hàn Quốc, Đài Loan, và Singapore tiếp theo, cũng
đều “thoát Á”, “thoát Trung” như vậy, làm nên điều thần kỳ Đông Á, trở thành
những quốc gia độc lập tự cường, không nước lớn nào “bắt nạt” được.
Tôi
muốn nhấn mạnh trường hợp Singapore, quốc đảo có 2/3 dân số gốc Hoa. Ông Lý
Quang Diệu, khi mới cầm quyền, định hướng phát triển cho Singapore với lập luận
rằng Singapore là nước nhỏ, nếu cứ tồn tại trong “vũng lầy kém phát triển châu
Á”, sẽ là cực kỳ rủi ro. Chỉ có một cách để Singapore đứng vững và độc lập là
“vươn lên gia nhập vào thế giới phát triển”, nghĩa là phải “thoát Á” theo nghĩa
rộng. Mà thoát Á ở Singapore, thực chất là “thoát Trung”, là tự thoát của ít
nhất 60-70% dân số gốc Hoa.
Mạch
logic “thoát Á”, “thoát Trung” đó dẫn tôi tới một luận điểm được coi là rất
quan trọng về mặt phương pháp luận và chiến lược: không chỉ các nước Nhật Bản,
Hàn Quốc hay Đài Loan…. muốn phát triển đều phải “thoát Trung”. Ngay cả Trung
Quốc, muốn phát triển được theo logic hiện đại, cũng phải “thoát Trung”.
Việc
ông Đặng Tiểu Bình sang Mỹ, đội mũ cao bồi, mặc quần áo bò, tuyên bố từ bỏ
“kinh tế kế hoạch hóa tập trung”, đi theo kinh tế thị trường, chính là đọc lời
tuyên ngôn đoạn tuyệt với nước Trung Hoa cũ. Chính nhờ đó, Trung Quốc trỗi dậy
– một sự trỗi dậy phi thường, ghê gớm mà lịch sử loài người chưa từng thấy.
Trung
Quốc còn phải thoát khỏi chính Trung Quốc mới phát triển được, huống hồ Việt
Nam. Không có lý gì để Việt Nam phải “né” khái niệm “thoát Trung”. Lịch sử đã
từng như vậy. Hiện đại càng là như vậy. Phải có khí phách như vậy.
Nhưng
như đã nói, Việt Nam “thoát Trung” phải chính là “thoát ta”. Không thoát ta thì
làm sao có thể “thoát Trung” triệt để được?
Điều
này gợi nhớ lại khái niệm “anh hùng”. Hóa ra khái niệm “anh hùng” thể hiện hai
phẩm chất khác nhau: phẩm chất “hùng” – là thắng người; còn phẩm chất “anh” là
thắng chính mình. “Anh” mới thực là khó, cao hơn “Hùng” nhiều. Đạt đến “hùng”
tuy rất khó, nhưng cơ bản cũng chỉ là đến trình độ “lấy thịt đè người” thôi.
“Thoát
được ta” giống như đạt đến phẩm chất “anh” trong khái niệm “anh hùng”.
Tôi
nghe nói người hình thành ra khái niệm “thoát Á” là Fukuzawa?
Không
chỉ riêng Fukuzawa, mà một nhóm những nhà tư tưởng, mà Fukuzawa nổi trội nhất.
Bản thân xã hội Nhật Bản thời đó, đi đầu là Vua Minh Trị - Duy Tân - cũng tự
phát hiện nước Nhật thực sự “có vấn đề”, khi bắt đầu mở cửa tiếp xúc với tàu
chiến phương Tây. Nước Nhật hiểu rằng đóng chặt cửa là chết; cứ ôm khư khư nền
văn hóa “gia trưởng” thì sẽ không có cơ gì khi đối mặt với tàu buôn và hàng hóa
phương Tây.
Hiểu
như vậy nên nước Nhật bắt đầu thức tỉnh. Tôi nhấn mạnh “nước Nhật”, chứ không
chỉ một vài người thức tỉnh. Nhưng các nhà chí sĩ như Fukuzawa đúc kết lý luận,
khái quát thành phương châm “thoát Á”. Trên cơ sở đó, Vua Minh Trị phất cờ,
cung cấp các điều kiện pháp lý bảo vệ cải cách, khuyến khích những người tiên
phong đưa nước Nhật “thoát Á”, thoát khỏi những trói buộc kiểu Phương Đông.
Cách
phát triển phải được nhận thức một cách lý luận như vậy, phải dựa trên sự hiểu
biết lý luận, không thể mãi là kinh nghiệm, gặp chăng hay chớ. Lý luận đi trước
dẫn đường, đánh thức cả nước Nhật. Nhờ đó mà nước Nhật thoát khỏi chính họ -
một cách thực chất, để xác lập một nước Nhật mới – mới về cách thức phát triển,
mới về con người, về cấu trúc xã hội, và về hệ giá trị. Mới cả về bạn bè, đối
tác và các mối quan hệ. Không phải là “thoát khỏi” một nước nào theo nghĩa “rời
xa” về địa lý hay là đoạn tuyệt về lịch sử - dân tộc và văn hóa.
Đây
cũng là bài học rất lớn để Việt Nam “thoát ta”, trước hết, về mặt nhận thức lý
luận con đường phát triển.
Xin
ông hãy cho biết kinh nghiệm “thoát ta” của các nước trên thế giới.
Chính
Trung Quốc thời Đặng Tiểu Bình cũng phải “thoát Trung” đó.
Trung
Quốc đã từng là nước dẫn đầu thế giới – cả về phương diện sản xuất GDP lẫn phát
minh sáng chế. Tính đến thế kỷ XVI, 80% số phát minh của loài người là do Trung
Quốc, hay Trung Quốc đã sản xuất 35% GDP thế giới. Nhưng sau đó, đến đời cuối
nhà Minh và nhà Thanh, Trung Quốc rơi vào trì trệ.
Châu
Âu bắt đầu vượt lên, nhờ Phục hưng, nhờ Thế kỷ Ánh sáng mà thoát khỏi “đêm
trường Trung cổ”.
Châu
Á tụt lại. Trung Quốc bị “coi thường”, với cả “bách niên quốc sĩ”.
Người
Nhật phát hiện ra cách của Châu Âu hay, nên Nhật Bản cũng chủ trương “thoát Á”,
chấp nhận cách phát triển của Phương Tây, áp dụng kinh tế thị trường tự do, mở
cửa ra với thế giới, nhờ đó vượt lên.
Nhưng
sau đó, Nhật Bản lại bị quá đà, lại thoát ly các giá trị “tự do, dân chủ”, sa
vào chủ nghĩa quân phiệt - phát xít cực đoan. Và lại bị phương Tây chinh phục
lần thứ hai. Đấy là một câu chuyện “thoát” khác nữa của lịch sử.
Khi
chấp nhận đầu hàng Mỹ, những gì nước Nhật muốn “thoát”, mà chưa “thoát” được,
Mỹ làm nốt. Mỹ xé tan chế độ quân phiệt và hệ thống độc quyền kinh tế, làm lại
hiến pháp, đẩy dân chủ hóa lên, suốt từ 1945 đến Thế vận hội Tokyo 1964. Nhật
Bản lại trỗi dậy thần kỳ, giống như Tây Đức ở châu Âu – cũng từ bỏ chế độ phát
xít, khôi phục kinh tế thị trường tự do, xã hội dân sự và nền pháp trị.
Hàn
Quốc, Đài Loan, và Hồng Công, cũng vậy. Hồng Kông chính là của Trung Quốc,
nhưng để Anh “cai trị” 99 năm nên mới phất lên như vậy, chứ nếu vẫn thuộc về
Trung Quốc thì chắc bây giờ hãy còn vất vưởng. Singapore cũng thế, bùng lên
được là do ông Lý Quang Diệu dẫn dắt theo mô hình Phương Tây.
Đó
là những bằng chứng cho thấy rằng nước nào “thoát” được những trói buộc kiểu
cũ, hay theo định nghĩa là “cổ truyền Trung Hoa”, mới có thể trỗi dậy được.
Trung
Quốc phát triển được như ngày nay cũng phải “thoát Trung”. Thế còn khái niệm
“Phục hưng Trung Hoa”, gần đây được giới lãnh đạo Trung Quốc sử dụng thì sao?
Kinh
nghiệm Nhật Bản nêu trên cung cấp một gợi ý để xem xét câu chuyện “Phục hung
Trung Hoa”. Việc từ bỏ hệ thống dân chủ - thị trường và trở lại chế độ quân
phiệt – phát xít, với tham vọng xâm lược, bành trướng và đề đầu cưỡi cổ nước
khác, bắt nước khác thần phục và lệ thuộc dẫn tới kết cục nước Nhật phải chấp
nhận nỗi nhục “đầu hàng”.
Trung
Quốc trỗi dậy, mong muốn “Phục hưng Trung Hoa”, nghĩa là tạo dựng lại một nước
Trung Quốc đứng đầu thiên hạ, với các giá trị Trung Hoa. Giá trị Trung Hoa đó
là gì vậy? Cách Trung Quốc triển khai hang nghìn Học viện Khổng Tử ở nước
ngoài, với sứ mệnh truyền bá văn hóa Trung Hoa, các giá trị Trung Hoa có gợi
cho anh điều gì không?
Tôi
nghĩ chúng ta đang dõi theo một quá trình chuyển biến cực kỳ thú vị của Trung
Quốc hiện đại: Đặng Tiểu Bình đưa Trung Quốc “thoát Trung”; còn Tập Cận Bình
đang “Phục hưng Trung Hoa”. Điều gì sẽ xẩy ra đây?
Thôi,
hãy đợi đấy.
Thế
câu chuyện của Việt Nam thì sao? Tại sao ta vẫn chưa “thoát ta”, theo cách nói
của ông?
Tự
mạch câu chuyện ở trên đã hàm chứa gợi ý hành động cho Việt Nam: phải cải cách
thị trường triệt để, và chọn đối tác rõ ràng. Phải can đảm trả giá, chịu đau –
mà rất đau đấy - để thoát khỏi lệ thuộc phát triển. Vô cùng khó khăn. Nhưng
càng để chậm sẽ càng khó. Nếu không thì sẽ muộn, sẽ bị loại khỏi cuộc đua hiện
đại.
Gắn
với vấn đề “thoát Trung”, có một vấn đề dễ được coi là “nhạy cảm”: mở cửa với
ai, cho ai và chọn cách phát triển nào?
Việt
Nam mở cửa và làm bạn với cả thế giới. Chiến lược đó là tuyệt đối đúng. Nhưng
không đủ. Chúng ta phải biết chọn đối tác chiến lược. CPTPP hay EVFTA là những
định hướng lựa chọn đối tác chiến lược “chuẩn”.
Tuy
nhiên, điều tôi muốn đề cập là những nước “thoát Trung” – kể cả Trung Quốc đã
chọn cách và hướng phát triển nào để đạt được thành công?
Câu
trả lời cho các câu hỏi đó – sự phân tích ở trên đã chứa đựng gợi ý khá rõ.
Điều
làm tôi băn khoăn là sao sau đến 35 năm “đổi mới thành công”, Việt Nam vẫn bị
“tụt hậu phát triển” thậm chí vẫn “tụt hậu xa hơn”? Điểm khác cơ bản trên
phương diện mô hình tăng trưởng và phát triển và định hướng đối tác chiến lược
của ta so với các nền kinh tế “thần kỳ Đông Á” là gì?
Tôi
còn nhớ khi Quốc hội Mỹ thông qua Hiệp định Thương mại song phương giữa Hoa kỳ
và Việt Nam, cuối năm 2001, Phó Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có qua Mỹ, và gặp bà
Ngoại trưởng Condoleeza Rice. Theo một người bạn của tôi, quan chức sứ quán
Việt Nam tại Mỹ, và có tham dự buổi tiếp, ông Nguyễn Tấn Dũng chỉ quan tâm đến
cá basa, bị đối xử bất bình đẳng ở Mỹ, trong khi đó bà Rice lại quan tâm đến
mối quan hệ chiến lược giữa hai nước, vốn vừa đạt được mối quan hệ bình thường
trong quan hệ kinh tế, sau khi bình thường hóa quan hệ ngoại giao, trên bình
diện toàn cầu.
Bạn
tôi nhận xét bà Rice có vẻ không vui, khi hai bên quan tâm đến những vấn đề
khác tầm. Nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan, lúc đó là Bộ trưởng Thương mại và cùng
tham dự cuộc gặp đó, đã xác nhận điều đó.
Theo
ông, có lẽ chúng ta đã bỏ lỡ một cơ hội “xích lại gần” với Mỹ?
Tôi
không biết chuyện này. Nhưng nếu đúng như vậy thì có thể “chỉnh lại” theo giả
định thế này: ông Nguyễn Tấn Dũng vẫn nói về cá basa, vì đó là lợi ích xuất
khẩu của Việt Nam, của các chủ trang trại và nông dân Việt Nam, không nên và
không được phép bỏ qua; nhưng sau đó, phải nối ca basa vào “chuỗi” câu chuyện
chiến lược, “tầm vóc” hơn, với liều lượng thích hợp. Nếu như vậy, có thể mọi
chuyện đã diễn ra theo một chiều hướng khác tích cực hơn. Chỉ dùng 1/3 thời
gian cho cá ba sa thôi, còn 2/3 thời gian phải nói với bà Rice về mối quan hệ
toàn cầu, mối quan hệ chiến lược.
Tư
duy là cực kỳ quan trọng, và cách tiếp cận thế giới liên quan như thế này. Như
Napoleon nói Trung Quốc là con sư tử, và tốt nhất là đừng đánh thức nó. Nhưng
chính kinh tế thị trường đã đánh thức con sư tử đó, và người tỉnh giấc đầu tiên
là Đặng Tiểu Bình. Ông đã không bị trói buộc bởi cách nghĩ của Trung Hoa cổ
truyền, theo kiểu thánh hiền, và ông vượt lên, đón luồng gió mới, từ kinh tế
thế giới. Ông chủ động đi ra ngoài để làm việc đấy, để thu hút đầu tư từ
nước ngoài, và con sư tử đó đã mạnh lên kinh khủng.
Việt
Nam, nhờ kinh tế thị trường, cũng đã thức dậy rồi. Bây giờ còn việc phải nối
đúng mạch vào đâu để lớn mạnh nhanh.
Kinh
nghiệm của thế giới, của chính ta có thừa cho một câu trả lời “chuẩn”.
Vấn
đề chỉ là ta có chịu “thoát ta”, có quyết thoát khỏi lối tư duy cũ, vượt qua những
trói buộc ngàn đời hay không thôi.
Tôi
nhớ là nguyên Phó Giám đốc Sở Ngoại vụ TP HCM Lương Văn Lý có nói rằng hồi đó
Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao vào nửa sau những năm ’80 của thế kỷ
trước rất quan tâm đến kinh tế thị trường. Đi đến đâu ông cũng nói về Samuelson
(người đoạt giải Nobel về kinh tế), người viết cuốn sách về kinh tế thị trường
hiện đại, và bắt Bộ Ngoại giao dịch ra tiếng Việt cho các lãnh đạo khác và các
cán bộ ngoại giao đọc để hiểu về kinh tế thị trường. Tôi nghĩ nếu ông còn tại
vị, sau khi Việt Nam bắt đầu xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, có lẽ Việt Nam sẽ tiến nhanh hơn, gần hơn với kinh tế thị
trường.
Xin
cảm ơn ông!
VIỆT
NAM CÓ THỂ HOÀN TOÀN “THOÁT TRUNG” ĐƯỢC KHÔNG?
Sau sáu năm, tôi lại đến Việt Nam lần nữa; chuyến đi này nhằm mục đích chính là tìm hiểu tình hình tiến trình “Thoát Trung” của Việt Nam thời cận đại và hiện đại cũng như các ảnh hưởng của tiến trình đó.
Cho
dù chỉ là một du khách bình thường đi tham quan kiểu cưỡi ngựa xem hoa thì bạn
cũng sẽ dễ dàng cảm nhận được văn hóa Trung Hoa có ảnh hưởng sâu sắc như thế
nào đối với Việt Nam: những biển chữ Hán
ngoài cổng các kiến trúc cổ trên đường
phố, những đôi câu đối nghiêm chỉnh trên cột các đền chùa, môn cờ tướng Trung
Quốc là trò giải trí được nhiều người ưa thích nhất ở các công viên, chữ Song
Hỷ màu hồng trong các lễ cưới….
Chưa
thấy nhiều tác phẩm nghiên cứu có hệ thống về vấn đề Việt Nam “Thoát Trung”.
Trong mấy tài liệu tôi sưu tầm được, các tác giả chưa nhất trí về nguồn gốc và
tình hình phát triển của tiến trình Việt Nam “Thoát Trung”, việc phân tích động
cơ “Thoát Trung” cũng khá đơn giản, và đó lại chính là nguyên nhân thúc đẩy tôi
đến Việt Nam tìm hiểu.
“La
tinh hóa” chữ viết của Việt Nam
Trong
tác phẩm “Khối cộng đồng tưởng tượng – nguồn gốc và sự truyền bá chủ nghĩa
dân tộc” [Imagined Communities: Reflections on the Origin and Spread of
Nationalism] của Benedict Anderson có viết: “Các tưởng tượng về nhà bảo tàng
và quá trình tổ chức nhà bảo tàng đều có tính chính trị sâu sắc”. Tôi luôn
cho rằng nếu muốn tìm hiểu lịch sử một nước, hoặc nói chính xác hơn, nếu muốn
tìm hiểu một quốc gia đã hướng dẫn người dân của họ nhìn nhận lịch sử của nước
mình như thế nào thì cách tốt nhất là hãy đến thăm viện bảo tàng lịch sử của
quốc gia đó.
“Viện
Bảo tàng Lịch sử quốc gia Việt Nam” là một tòa kiến trúc kiểu Pháp mang đặc sắc
thuộc địa rõ ràng. Nơi đây từng là viện nghiên cứu khảo cổ có tên “Viện Viễn
đông bác cổ của Pháp Quốc (École française d’Extrême-Orient, EFEO)”. Viện này
có đóng góp to lớn cho công cuộc nghiên cứu các lĩnh vực lịch sử học, khảo cổ
học, nhân học vùng Đông Nam Á, Đông Á và Nam Á; trong đó cống hiến được truyền
tụng nhất là thành tựu nghiên cứu về đền Angkor Wat ở Campuchia và về Hán học
Viễn Đông cũng như Đôn Hoàng học. Viện Viễn đông bác cổ của Pháp Quốc còn phát
minh ra một bộ chữ ghi âm Hán ngữ La Tinh hóa, từng một thời được dùng rộng rãi
ở các nước nói tiếng Pháp hoặc dùng La Tinh ngữ.
Bộ
chữ cái ghi âm ban đầu do Viện Viễn đông bác cổ của Pháp Quốc thiết kế chắc là
không khác mấy so với chữ Quốc ngữ Việt Nam La tinh hóa do các nhà truyền giáo
Bồ Đào Nha phát minh hồi thế kỷ 16, nhằm tạo thuận tiện cho người phương Tây
học Hán ngữ và tiếng Việt, cũng như cho việc truyền giáo và giao tiếp hàng
ngày. Thế nhưng, cùng với tiến trình toàn cõi Việt Nam biến thành thuộc địa của
Pháp còn Trung Quốc thì chưa hoàn toàn trở thành thuộc địa, hai loại chữ viết
La tinh hóa ấy có số phận khác nhau. Sau khi Hệ thống Pinyin Hán ngữ do nhà
nước Trung Quốc triển khai được Liên Hợp Quốc thừa nhận là Hệ thống Pinyin tiêu
chuẩn quốc tế thì bộ chữ ghi âm Hán ngữ do Viện Viễn đông bác cổ của Pháp Quốc
phát minh và bộ chữ ghi âm Hán ngữ kiểu Wade–Giles [Wade–Gilles system] do
người Anh phát minh cũng như một vài kiểu chữ phiên âm Hán ngữ khác đều dần dần
mất đi địa vị quốc tế, không còn được sử dụng nữa.
Nhưng
từ thế kỷ 19 thực dân Pháp lại ra sức đẩy mạnh sử dụng chữ Việt Nam La tinh hóa
(chữ Quốc ngữ), dần dần trở thành chữ viết chính thức của xứ Đông Dương thuộc
Pháp. Người Pháp làm thế nhằm mục đích chính là để tầng lớp tinh hoa người Việt
thoát ra khỏi ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc, cắt đứt mối liên hệ văn hóa giữa
Việt Nam với Trung Quốc. Cho nên một số học giả coi việc La tinh hóa văn tự
Việt Nam tiến hành trong thời kỳ Pháp đô hộ nước này là sự khởi đầu quá trình
“Thoát Trung” của Việt Nam.
Thế
nhưng ngay cả trong thời kỳ Pháp thuộc thì chữ Hán và chữ Nôm (một loại chữ
Việt Nam hóa dựa trên nền tảng chữ Hán) cũng không hoàn toàn biến mất trong đời
sống người Việt. Trên rất nhiều lĩnh vực, chữ Hán vẫn dùng song song với chữ
Quốc ngữ. Sau khi thành lập chính quyền Bắc Việt Nam do Hồ Chí Minh lãnh đạo
thì chữ Hán hoàn toàn bị thay thế, trở thành vật hy sinh của “Phong trào xóa
nạn mù chữ” do nhà nước triển khai. Đối ngoại, chính phủ Việt Nam tuyên bố
sở dĩ phải đẩy mạnh dạy chữ Quốc ngữ chứ không dạy chữ Hán, đó là do chữ Quốc
ngữ La tinh hóa đơn giản dễ học. Nhưng trên thực tế cho dù là tầng lớp lãnh đạo
Đảng Cộng sản Việt Nam hay tầng lớp tinh hoa trong xã hội Việt Nam thời ấy, ai
cũng đều hiểu rõ bỏ chữ Hán là bước đi cốt lõi của tiến trình “Thoát Trung”
nhằm để Việt Nam hoàn toàn thoát khỏi ảnh hưởng mấy nghìn năm của Trung Quốc.
Tự
thuật của Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam
Trong
Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam [Vietnam National Museum of History] ở Hà
Nội, phần lớn các văn bản thuyết minh và lời thuyết minh vật trưng bày đều dùng
tiếng Việt và tiếng Anh; một số ít “nội dung nhạy cảm” thì chỉ giới thiệu bằng
tiếng Việt. Mặc dầu Trung văn không được dùng ở đây nhưng rất nhiều văn bản
lịch sử và hiện vật lịch sử lại đều thể hiện bằng chữ Hán, nhất là phần lịch sử
cổ đại.
Theo
cách nói của giới sử học Trung Quốc thì lịch sử Việt Nam có thể sơ lược chia
làm 5 thời kỳ: 1) Thời tiền sử và các truyền thuyết; 2) Thời kỳ Bắc
thuộc, tức thời kỳ Việt Nam là một bộ phận của Trung Quốc, bắt đầu từ khi tướng
nhà Tần là Triệu Đà bình định Bách Việt và lập nước Nam Việt tại Phiên Ngung
[Panyu] thuộc tỉnh Quảng Đông thời nay cho tới năm 938 sau CN thời Ngũ đại thập
quốc [907-979], khi Ngô Quyền của Việt Nam đánh bại quân Nam Hán, lập triều đại
nhà Ngô độc lập; 3) Thời kỳ quốc gia độc lập, từ năm 938 đến năm 1884 khi
nước Pháp biến Việt Nam thành thuộc địa; suốt thời kỳ đó, Việt Nam là nước
phiên thuộc của nhiều vương triều Trung Quốc, trong đó có 20 năm Việt Nam bị
nhà Minh thu hồi thành thuộc quốc; 4) Thời kỳ là thuộc địa của
Pháp; 6) Thời kỳ độc lập sau Thế chiến II.
Các ghi chép lịch sử thường có nội dung khác
nhau bởi lẽ chủ thể viết sử khác nhau, điều đó không khó hiểu. Trong Viện Bảo
tàng Lịch sử quốc gia, ở phần thời kỳ tiền sử, văn hóa Đông Sơn được giới thiệu
nhiều nhất, coi là tiêu biểu của thời này, nhưng ở thời kỳ thứ hai thì nền văn
hóa đó lại bị lược bỏ. Trên thực tế, phần giới thiệu duy nhất về thời kỳ thứ
hai là một bảng biểu “Chống xâm lược” xuyên suốt thời kỳ này, toàn bộ đều viết
bằng chữ Quốc ngữ. Thế nhưng khi đọc kỹ bảng biểu đó người ta có thể thấy một
số “nội dung nhạy cảm”: chống Đông Hán, chống Lưỡng Tấn, chống Nam Triều, chống
quân nhà Đường v.v… Theo ghi chép của lịch sử Trung Quốc thì các nội dung này
đều được định nghĩa là những sự kiện lịch sử “dân địa phương nổi dậy [dân
biến]” hoặc “làm loạn [tác loạn]”, còn tại bảo tàng này thì tất thẩy đều được
coi là nghĩa cử “chống ngoại xâm”.
Bảo tàng Lịch sử quốc gia dành cho thời kỳ
thứ ba phần giới thiệu rất chi tiết nhưng sợi chỉ chính xuyên suốt phần này thì
không thay đổi, vẫn là chủ đề “Chống xâm lược phương Bắc” như chống quân
Tống, chống quân Nguyên, chống quân Minh, chống quân Thanh… song le lại không
một chữ nào nói đến mối quan hệ giữa chính quốc [tông chủ, tức Trung Quốc] với
nước phiên thuộc [tức Việt Nam]. Trong đó có một đoạn khá thú vị nói về thời kỳ
20 năm Minh thuộc. Theo ghi chép trong Đại Việt Sử ký toàn thư, sách sử
chính thức của triều Hậu Lê Việt Nam thì những năm đầu nhà Minh, trong triều
đình nhà Trần ở Việt Nam có xảy ra sự kiện một người họ Hồ [Hồ Quý Ly?] thuộc
bên ngoại của nhà vua định cướp ngôi, nhà Minh phái quân đội Nam tiến sang Việt
Nam để lập lại sự công bằng về đạo lý; sau khi diệt xong Hồ, các quan lại và
người cao tuổi bản địa cho biết hoàng tộc nhà Trần đã bị tuyệt diệt không còn
người nối dõi, yêu cầu nhà Minh thu hồi quốc hiệu An Nam Quốc (Việt
Nam), khôi phục chế độ đãi ngộ “quận huyện” của vương triều Trung nguyên trước
kia. Trong Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, đoạn lịch sử này cũng được giới thiệu là
“Nhà Minh xâm lăng Việt Nam, phạm tội ác tầy trời”.
Tự khoe là “chính thống Trung Hoa”
Cho dù phần tự thuật trong Bảo tàng Lịch sử
Quốc gia tràn đầy tinh thần “Chống phương Bắc” nhưng từ quá trình lịch sử Việt
Nam được thể hiện trong mọi trưng bày ở đây rất khó có thể nói các đời vương
triều Việt Nam có một quá trình chủ động “Thoát Trung”. Trên thực tế, vào các
thời Nguyên Mông, Mãn Thanh làm chủ vùng Trung nguyên Trung Quốc, các văn bản
thư tịch của vương triều Việt Nam từng [có ý khinh bỉ] gọi hai kẻ thống trị
phương Bắc ấy là “Mông Thát”, “Mãn Di”, mà tự khoe mình là “Chính
thống Trung Hoa”. Trong bảo tàng có một bản chiếu thư bằng gấm do hoàng đế
triều nhà Nguyễn sắc phong một vị tướng chống quân Thanh, trên tờ chiếu đó thậm
chí có mấy chữ Hán: “Kiến công Vạn lý tráng Trường thành”.
Vào cuối thời đại phong kiến, Việt Nam ra
sức mở rộng lãnh thổ, dần dần chiếm lĩnh một vùng đất rộng ở châu thổ sông
Mekong vốn thuộc Campuchia. Trong quá trình cưỡng chế đồng hóa người Cao Miên,
Việt Nam càng cưỡng bức người “Cao man” (người Cao Miên) mặc Hán phục, học chữ
Hán. Sách sử chính thức của triều Nguyễn “Đại Nam thực lục” chép: “… Tai
nghe nhiều thi quen, mắt thấy nhiều thì thuộc, cứ thế [người Miên] dần
dà hòa nhập với phong tục người Hán; nếu lại có thêm sự giáo hóa của chính
quyền, dùng văn hóa Hoa Hạ để biến đổi các dân tộc man di, xem ra sau vài chục
năm thì có thể làm cho họ chẳng khác gì người Hán [Hán dân].” Ở đây triều
Nguyễn tự xưng là “Hán”, “Hạ” [tên cũ của Trung Quốc], “Hán dân”, khoe mình là
dòng chính thống [đích hệ] của văn hóa Trung Hoa.
Nhà văn chuyên mục lịch sử Quách Hoa Mân
từng viết trên mục Tư gia lịch sử
mạng Bloomberg về sự cai trị đất nước của vương triều phong kiến nhà
Nguyễn như sau: “Nước Đại Việt dù ở xa trung tâm thống trị của vương triều
Trung nguyên nhưng lại toàn lực bắt chước và cấy ghép các chế độ văn hóa, kinh
tế, chính trị của Trung Quốc. Triều Lý (1010-1225) chia chế độ quan lại làm hai
ban văn võ, mỗi ban có cửu phẩm; các địa phương có Tri phủ, Phán phủ, Tri châu;
trung ương còn có các trọng chức như Thái sư, Thái phó, Thái úy, Thái bảo. Thời
kỳ đầu triều Lý đã xây dựng Văn miếu để thờ Khổng Tử và Chu Công, bắt chước chế
độ khoa cử nhà Tống Đường…”
Phương thức sao chép các chế độ của Trung
Quốc kéo dài suốt cho tới đêm trước ngày Việt Nam rơi vào vòng thuộc địa của
Pháp. Chịu sự cai trị trực thuộc của Trung Quốc trong hơn 1.000 năm cộng thêm
hơn 900 năm bê nguyên xi mọi thứ của Trung Quốc về dùng, Việt Nam chịu ảnh
hưởng của văn hóa Trung Hoa quá ư sâu xa (sâu và rộng hơn nhiều so với Triều
Tiên, Nhật). Trong “Khối cộng đồng tưởng tượng”, Anderson luận bàn thế này: “Tuy
rằng vương triều thống trị Hà Nội và Huế (kinh đô triều Nguyễn) mấy thế kỷ qua
đều bảo vệ được nền độc lập, không bị Bắc Kinh xâm phạm, nhưng rốt cuộc họ vẫn
cứ dựa vào bè lũ quan liêu dốc lòng bắt chước người Trung Quốc để cai trị đất
nước. Cơ quan nhà nước dựa vào chế độ “khoa cử” – kiểu thi viết về chủ đề là
các kinh điển Nho giáo để lựa chọn và đề bạt người tài; các văn bản của triều
đình đều viết bằng chữ Hán; về mặt văn hóa, mức độ Trung Quốc hóa của giai cấp
thống trị cũng rất sâu.”
Rồi Anderson phân tích: Sau năm 1895, các
trước tác của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu và sau này là của Tôn Trung Sơn…
truyền vào Việt Nam khiến cho “mối quan hệ lâu dài giữa Việt Nam với Trung
Quốc có tính chất không được [chính phủ thực dân Pháp] hoan nghênh”.
Bởi thế nên vào khoảng năm 1915, chế độ khoa cử bị bãi bỏ, thay bằng hệ thống
giáo dục thuộc địa với tiếng Pháp là môn học chính. Ngoài ra, chữ Quốc ngữ Việt
Nam La tinh hóa được hết sức đề xướng, qua đó làm cho các thế hệ mới của người
Việt Nam thuộc địa do không thể tiếp xúc với thư tịch của thời đại các vương
triều cũng như văn học cổ xưa mà bị cắt đứt mối liên hệ với Trung Quốc – cũng
có thể gồm cả quá khứ của bản địa Việt Nam.
Theo phân tích của Anderson, đối với tầng
lớp tinh hoa bản xứ Việt Nam, sự “Thoát Trung” do người Pháp cưỡng chế tiến
hành không phải là chủ ý của người Việt, mà là một quá trình bị động.
Như vậy sau khi đã đánh đuổi thực dân Pháp (nhất là dưới sự giúp đỡ của quân
đội Trung Quốc), Việt Nam hoàn toàn có thể trở lại con đường truyền thống
“Trung Quốc hóa”, điều đó chẳng những có thể tăng cường mối quan hệ “láng giềng
hữu hảo” giữa Việt Nam với Trung Quốc mà cũng có thể giúp cho người Việt Nam
lập lại mối liên hệ với tổ tiên mình.
Song le sự thực lại không như vậy.
Phần tự thuật của Bảo tàng Lịch sử quốc gia
Việt Nam đến năm 1945 thì chấm dứt. Chỉ có thể tìm hiểu thời kỳ tiếp theo của
lịch sử Việt Nam từ một bảo tàng khác – “Bảo tàng Cách mạng Việt Nam” ở bên kia
đường phố. Viện Bảo tàng này trưng bày thời kỳ từ khi chủ nghĩa dân tộc Việt
Nam thức tỉnh cho tới ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam rồi đến chiến dịch
Điện Biên Phủ, người Việt Nam đánh đuổi thực dân Pháp; về cơ bản có thể coi là
lịch sử giai đoạn đầu quá trình phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong đó
tràn ngập sự tuyên truyền mang màu sắc thần thoại, điều này không có gì khó
hiểu.
Tiền đề cấu tạo quốc gia dân tộc
Điều khác biệt rõ ràng với các vật trưng bày
tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia là các vật trưng bày trong Bảo tàng Cách mạng hầu
như không có chữ Hán, thậm chí hầu như không có hai chữ “Trung Quốc”. Tại đây,
phong trào Việt Nam độc lập chống Pháp hoàn toàn do người Việt Nam tự thực
hiện, không một chữ nào nhắc tới sự viện trợ của Trung Quốc. Có điều đáng chú ý
là ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình, Hồ Chí Minh tuyên bố sự ra đời của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhà lãnh đạo xuất thân từ một gia tộc Nho học
nhiều đời, có vốn hiểu biết chữ Hán vững vàng này đã đọc trước công chúng bản
“Tuyên ngôn Độc lập” viết bằng chữ Quốc ngữ Việt Nam La tinh hóa. Sau đó không
lâu, Hiến pháp năm 1946 ghi rõ chữ Quốc ngữ là chữ viết chính thức của Việt
Nam.
Cuốn sách Khối Cộng đồng tưởng tượng của Anderson không quan tâm nhiều tới
lịch sử “Thoát Trung” của Việt Nam, nhưng trong sách có riêng một chương bàn về
sự thức tỉnh của chủ nghĩa dân tộc ở các quốc gia thuộc địa sau Thế chiến II và
con đường xây dựng nhà nước dân tộc. Trong đó, tìm kiếm sự thừa nhận thân phận
dân tộc mình là bước đi tất yếu để xây dựng quốc gia dân tộc, là cơ sở logic để
thực hiện “Khối cộng đồng tưởng tượng”, mà quá trình tìm kiếm đó ắt phải là quá
trình chủ động, tỉnh táo.
Đối với tầng lớp lãnh đạo Việt Nam sau ngày
độc lập, trở lại “Trung Quốc hóa” tuyệt đối không phải là con đường đúng đắn để
xây đắp sự đồng thuận của dân tộc. Ngược lại, “Thoát Trung” mới là điều kiện
tất yếu để xây dựng một quốc gia dân tộc. Nói cách khác, nếu Việt Nam muốn trở
thành một quốc gia hiện đại độc lập thì “Thoát Trung” là nền tảng, là cốt lõi,
là một sứ mệnh lâu dài. Điều đó về cơ bản nhất trí với nhận thức “Thoát Trung”
của Nhật Bản, Triều Tiên vốn là các nước trong vành đai văn hóa Trung Hoa, cho
dù quá trình “Thoát Trung” của Việt Nam cần thời gian dài hơn, và quá trình đó
càng đau khổ hơn đối với hai nước Trung Quốc và Việt Nam.
Nguyện vọng của tầng lớp lãnh đạo Việt Nam
Sau Thế chiến II, 200 nghìn quân Quốc Dân
Đảng Trung Quốc tiến vào Việt Nam với danh nghĩa tiếp thu sự đầu hàng của quân
đội Nhật chiếm đóng Việt Nam. Không lâu sau, quân đội Pháp cũng đổ bộ vào Việt
Nam, yêu cầu phục hồi chủ quyền của quốc gia cai trị thuộc địa trước chiến
tranh. Tưởng Giới Thạch lấy việc Pháp trả lại cho Trung Quốc một số lợi ích
kinh tế như các tô giới trong lãnh thổ Trung Quốc làm điều kiện trao đổi để rút
quân Quốc Dân ra khỏi Việt Nam.
Phần lớn các nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt
Nam thời ấy đều phản đối việc trao trả Việt Nam cho thực dân Pháp, nhưng Hồ Chí
Minh lại ký vào Hiệp định.[1] Vì thế mới có chuyện trong ghi chép của
nhà báo Mỹ Stanley Karnow có viết “I prefer to sniff French shit for five years
than eat Chinese shit for the rest of my life.” [2]
Trong thế giới Trung văn, câu nói này của Hồ
Chí Minh có những bản dịch khác nhau, có thể từ ngữ có chút dị biệt, nhưng ý
nghĩa đại để như vậy. Mặc dầu về sau giáo sư Liam Kelley ở Đại học Hawaii có
nghi ngờ về xuất xứ câu nói ấy của Hồ Chí Minh mà Karnow trích dẫn, thế nhưng
qua liên hệ với hồi ký của một số nhà lãnh đạo Trung Quốc thì những phát biểu
của Hồ Chí Minh đại loại như “Biểu hiện ngạo mạn của quân đội Trung Quốc thì
giống như biểu hiện của quân đội Trung Quốc thời xưa từng thường xuyên xâm phạm
Việt Nam”, và liên hệ tới chuyện Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam xóa
sạch sự viện trợ của Trung Quốc giúp Việt Nam đánh đuổi thực dân Pháp, thì
chẳng nói cũng biết tầng lớp lãnh đạo Việt Nam đúng là có xu hướng mạnh mẽ
“Thoát Trung”.
Điều thú vị là Anderson sinh ra ở Côn Minh,
từ nhỏ gia đình ông có thuê một bà bảo mẫu người Việt Nam; tuy sách của ông
không bàn luận sâu về mối quan hệ Việt Nam – Trung Quốc song ông lại nói chính
cuộc chiến tranh Trung Quốc-Việt Nam năm 1979 đã “trực tiếp gợi ý tôi viết cuốn Khối cộng đồng tưởng tượng”.
Hồi đó toàn thế giới đều cho rằng cuộc chiến
ấy có nguyên nhân là sự đấu tranh phe phái trong thế giới cộng sản (Liên Xô và
Việt Nam một phe, Trung Quốc và Campuchia một phe), hoặc là cuộc xung đột địa
chính trị của ba nước lớn Trung Quốc, Mỹ, Nga. Nhưng Anderson thì nhìn thấy rõ
nguyên nhân lịch sử ở tầng sâu hơn phía sau cuộc chiến ấy – đó là chủ nghĩa dân
tộc vượt qua ý thức hệ, vượt qua địa chính trị.
Việt
Nam có thể triệt để “thoát Trung” được chăng?
Những
năm gần đây, do xung đột trên vấn đề Biển Đông [nguyên văn Nam Trung Quốc
hải] và do nỗi đau vết thương còn lại sau cuộc chiến 1979 ấy, một số nhà
phân tích cho rằng Việt Nam có lẽ sẽ tăng cường độ “Thoát Trung”. Năm 2010 một
bộ phim truyền hình cổ trang của Việt Nam quay tại trường quay ở Trung Quốc vì
“quá ư Trung Quốc hóa” mà bị chính quyền Việt Nam cấm chiếu.[3] Năm 2014, Bộ Văn hóa Việt Nam gửi công
văn kiến nghị các địa phương không bày biện, không sử dụng, không thờ cúng các
loại tượng điêu khắc, sản phẩm, linh vật và vật phẩm quái dị không hợp thuần
phong mỹ tục Việt Nam”. Nghe nói những vật phẩm ấy chủ yếu là các loại sư tử đá
“Trung Quốc hóa” nhập từ Trung Quốc.
Thế
nhưng các cố gắng “Thoát Trung” về văn hóa của Việt Nam xem ra không có hiệu
quả lớn. Suy cho đến cùng, quá trình hơn 2000 năm ngấm văn hóa Trung Quốc đã
đặt nền móng văn hóa cho bản thân Việt Nam, triệt để “Thoát Trung” sẽ tương
đương với sự cắt đứt lịch sử của chính mình. Ở Việt Nam ngày nay, tam giáo Nho,
Thích, Đạo đều có mảnh đất của mình, mà cả ba đều từ Trung Quốc truyền sang,
các tín đồ của họ vẫn chiếm tuyệt đại đa số trong số dân tin theo tôn giáo ở
nước này.
Về
kinh tế, hầu như chẳng ai tin rằng trong một thời gian ngắn Việt Nam có thể
thoát khỏi sự dựa dẫm vào Trung Quốc. Cho dù nội bộ chính phủ Việt Nam thỉnh
thoảng có thảo luận vấn đề “Cố gắng Thoát Trung về kinh tế” nhưng ngành chế tạo
của Việt Nam chỉ là một khâu trong chuỗi sản xuất công nghiệp do Trung Quốc làm
chủ, sản phẩm làm ra lại cần lấy Trung Quốc làm nước nhập khẩu lý tưởng. Thoát
khỏi Trung Quốc về kinh tế hầu như là một “nhiệm vụ không thể thực hiện”.
Lĩnh
vực Việt Nam có khả năng nhất để thực hiện “Thoát Trung” là chế độ chính trị.
Mặc dù rất khó có thể nói thể chế chính trị hiện nay của Việt Nam là bản sao
của Trung Quốc, nhưng mỗi lần Việt Nam và Trung Quốc xảy ra xung đột thì hầu
như lần nào mâu thuẫn cũng đều được hóa giải với lý do “giữ cho toàn vẹn mối
tình giữa hai đảng, hai chính phủ”. Tuy nhiều báo đài từng đưa tin với tiêu đề
đại để như “Công cuộc cải cách thể chế chính trị của Việt Nam tiến nhanh hơn
Trung Quốc” song tình hình thực tế lại không như vậy, hoặc có thể nói việc cải
cách thể chế ở Việt Nam chưa có những đột phá thực chất.
Tháng 8/2014, hãng tin Bloomberg đưa
tin: 61 thành viên Đảng Cộng sản Việt Nam, trong đó có một cựu đại sứ tại Trung
Quốc, cùng ký tên vào một bức thư ngỏ gửi Chính phủ Việt Nam. Bức thư viết: Các
nhà lãnh đạo nên “xây dựng một nhà nước thực sự dân chủ, pháp trị”, cho
phép tự do ngôn luận chính trị ở mức độ rộng hơn, “thoát khỏi” sự dựa
dẫm vào Trung Quốc. Bản tin cho biết, một số người, kể cả các cựu quan chức
chính phủ đã dự thảo một bản Hiến pháp yêu cầu triển khai sự “cạnh tranh về
chính trị”. Mặc dù kết quả bầu cử lãnh đạo mới đây không thể hiện Chính phủ
Việt Nam có dấu hiệu “thoát khỏi Trung Quốc”, nhưng việc vấn đề này có thể được
bàn luận trong thư ngỏ là đủ tỏ rõ nguyện vọng của một bộ phận khá đông đảo
trên chính trường Việt Nam.
Bất kể là trên vấn đề tranh chấp lãnh thổ
hay vấn đề kinh tế, Việt Nam đều tính toán khả năng dựa vào phương Tây, thậm
chí từng có thời đã xem xét vấn đề lập liên minh quân sự với quốc gia cựu thù
là Mỹ, song le lại khó có thể vượt qua trở ngại về ý thức hệ. Nếu Việt Nam muốn
tăng cường mối quan hệ với phương Tây để chống Trung Quốc thì tiền đề ắt phải
là về chính trị nên mở cửa hơn, bỏ chế độ chuyên chế một đảng, về thể chế chính
trị cần triệt để cắt đứt quan hệ với Trung Quốc. Bước đi này tuy không gian nan
như sự “Thoát Trung” về văn hóa nhưng lại chẳng dễ dàng thực hiện.
(Bài không ghi tên tác giả, có lẽ là một nhà báo Trung Quốc
giấu tên. Nguyễn Hải Hoành biên
dịch và ghi chú trong ngoặc)
———————
[1] Có thể tác giả muốn nói Hiệp định Sơ bộ Pháp-Việt, ký tại
Hà Nội ngày 6/3/1946. Tham khảo: https://vov.vn/the-gioi/ho-so/hiep-dinh-so-bo-631946-nuoc-co-sac-sao-cua-ho-chu-tich-va-dang-ta-486107.vov
[2] Câu cuối này trong tiếng Anh là “I prefer to sniff French
shit for five years than eat Chinese shit for the rest of my life.” – Theo:
Stanley Karnow’s Vietnam:
A History (New York: Viking Press, 1983).
[3] Có lẽ là phim “Lý Công Uẩn – Đường dẫn tới thành Thăng
Long” Tham khảo: https://nld.com.vn/van-hoa-van-nghe/khong-chieu-ly-cong-uan-duong-toi-thanh-thang-long-la-hop-le-20110609102020887.htm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét