Chủ Nhật, 9 tháng 8, 2020

NHẬN XÉT TỔNG QUAN VỀ MINH TRIẾT VIỆT TRONG VĂN MINH ĐÔNG PHƯƠNG

  1. TS. NGUYỄN ĐỒNG

 Việt kiều ở Orange, Caliíomia

Giám đốc Trung tâm văn hóa Minh Triết & Thiên sứ Nguyễn Vũ Tuấn Anh

tại hội thảo Tìm về cội nguồn sử Việt năm 2019 tại Hà Nội

     Chúng tôi rất hân hạnh được tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh (NVTA) mời /1 đọc bản thảo tác phẩm Minh triết Việt trong văn minh Đông phương (MTVTVMĐP). Niềm vinh dự này càng lúc càng tăng, khi người viết tiếp tục đọc và suy ngẫm những tài liệu căn bản giới thiệu trong tác phẩm. Người viết đã đọc đi đọc lại bản thảo ba bốn lần, để thấm nhuần dòng tư tưởng của tác giả trước khi viêt vài dòng nhận xét này. Tác phâm MTVTVMĐP đòi hỏi người đọc có một số kiến thức căn bản về Dịch, từ đó quyển sách đã dẫn người viết từng bước đến những chân trời mới lạ có sức thu hút rất kỳ diệu.

Người viết đọc tác phẩm MTVTVMĐP qua lăng kính người làm khoa học duy lí và thực chứng. Cái nhìn của người viết bị giới hạn bởi các phạm trù khoa học này. Tuy nhiên, hy vọng là những điều người viết đề nghị có thể tăng sức thuyết phục, khi tác phẩm này được đưa ra bàn cãi trước các diễn đàn quốc tế. Không sớm thì muộn tác phẩm này cũng sẽ gây nhiều tranh cãi và phải đối đầu với các lời khen chê của các trường phái quốc tế, nhất là khi một quốc gia vì lý do nào đó cảm thấy căn bản nền văn hiến của họ bị đe dọa.

Cách bố cục quyển sách rất độc đáo. Tác giả cho biết kết luận tổng quát ngay từ phần dẫn nhập, sau đó qua bốn phần chính, tác giả đưa ra thứ lớp các băng chứng, chứng minh cho mô hình từ căn bản khai sinh ra vũ trụ, cho đên sự biến hóa tiếp diễn từ giản đơn đến phức tạp qua tổng họp Dịch với Âm Dương Ngũ hành. Người đọc có cảm giác như đang phiêu lưu đi tìm một kho tàng cổ vô giá, đã bị vùi lấp dưới lau sậy của hàng ngàn năm vô tri thức. Giá trị của kho tàng không phải để tôn vinh một niềm kiêu hãnh dân tộc suông, mà còn có tiềm năng cống hiến những giải pháp quý giá cho các bế tắc khoa học hiện đại.

Với những thành công vượt bậc trong các khoa học chuyên ngành, khoa học hiện đại vẫn lúng túng khi đi tìm sự thống nhất giữa khoa học vi mô và khoa học vĩ mô, điển hình là sự thiếu dung hòa giữa lý thuyết lượng tử (quantum mechanics) và lý thuyết tương đối (relativity physics). Trong khi đó Lý học Dịch Âm Dương Đông phương đã có tham vọng lý giải tổng quát và định tính những tương tác phức tạp giữa các yêu tô thiên nhiên, từ hạt lượng tử đến các dải ngân hà, và con người với vũ trụ.

Thật là khó hiểu khi thấy kho tàng tri thức vĩ đại này vẫn tồn tại như một sự huyền bí với tiến bộ của loài người, từ hàng nghìn năm nay, mặc dù tiềm năng áp dụng không chỉ giới hạn trong khoa học tự nhiên, mà còn lan đến khoa học nhân văn (xã hội học, tâm lý học, triết học...) và cả những ngành liên quan đến nhân sinh như nghệ thuật hay tâm linh học. Cảm nhận điều này còn dẫn đến một nghi vấn lớn cho khoa học hiện nay: Động lực nào đã thúc đẫy loài người trong giai đoạn bị coi là bán khai tò 5 - 6 nghìn năm trước, đi tìm và giải quyết những vấn đề mà nhân loại hiện nay mới bắt đầu phải đối đầu?

Đây cũng là điểm đáng được đánh giá cao nhất của tác phẩm MTVTVMĐP vì đã góp phần rất lớn vào việc xây dựng phong trào “duy tân” cho nền văn minh cổ kính vĩ đại này. Xây dựng trên nền tảng một tri thức khách quan và nhất quán về nguồn gốc vũ trụ tiền không gian, tiền thời gian và vô số lượng, nền văn minh này có thể còn vượt trên nền văn minh hiện đại về một số phương diện.

Hiện nay khoa học hiện đại vẫn còn tranh cãi sự hiện diện một quyền uy tối cao có quyền thưởng phạt vào thời điểm 0, thì tri thức tối cổ này đã minh triết một quy luật khách quan, nhất quán và phổ quát về vận hành của vũ trụ. Hơn thế, tri thức này còn có thể hàm ẩn một giải pháp phổ quát cho những học giả muốn áp dụng quy luật khách quan này vào việc giải quyết những bế tắc lớn ngày nay của nhân loại. Đe dọa đến sự sống còn của nhân loại ngay trước mắt phải kể đến hiểm họa ô nhiễm môi trường và mất thăng bằng phân bố của cải trong xã hội. Nhà bác học Stephen W.Hawking đã tiên đoán là với trình độ khoa học hiện tại, nhân loại không thể giải quyết kịp những hậu quả do chính khoa học gây ra.

Chìa khóa để mở kho tàng này, lạ thay đã luôn luôn hiện diện trong nền văn minh Đông Nam Á, chỉ bị che phủ bởi một bức màn u minh nhân tạo. Công trình đặc sắc của tác giả NVTA chứng minh một cách hệ thống rằng bức màn vô minh này có thể bị soi thủng bởi minh triết văn chương bình dân Việt Nam, Đại Hàn và Nhật Bản. Qua những lý luận đầy sáng tạo, tác giả NVTA đã nhiệt thành chứng minh và kết luận rằng: Lý học Dịch Âm Dương phải có nguồn cội chính từ Lạc Việt mà Việt Nam là nơi duy nhất còn lưu giữ được. Tác giả NVTA cũng ứng dụng hết sức sắc sảo tinh túy văn hóa dân quan Việt Nam vào việc thanh lọc những bế tắc phi lý của logic Lý học Dịch Âm Dương tồn tại trong những thư tịch bác học cổ. Sau khi đọc hết phần I, II, và III, câu hỏi hiển nhiên là tại sao vấn đề rõ ràng là sai như thế mà không học giả Hoa Hạ nào tìm hiểu để giải quyết trong suốt mấy nghìn năm?

Không những ở Hoa Hạ, mà cả ở Việt Nam biết bao nhiêu nhân tài trong nền văn minh bác học, cũng đã bất lực khi tìm hiểu căn bản Lý học Dịch Âm Dương qua kiến thức chấp nối từ thư tịch cổ. vấn nạn như thế để hiểu phần nào trí tuệ vĩ đại của tiền nhân. Hầu như biết trước được sự suy tàn của nền văn minh Lý học Dịch Âm Dương, các ngài đã để lại di chúc cho đời sau bằng những ấn dụ như ca dao, tục ngữ, truyện kể, những tranh dân gian mộc mạc màu sắc, những món ăn thiêng liêng hương vị, những trò chơi hồn nhiên cho trẻ em, những phong tục tập quán lễ nghĩa... để đợi ngày tinh túy được phục hưng. Tuồi thơ của chúng ta có lẽ đã trải qua bao lần bâng quơ tự hỏi: tại sao lại có những dấu hiệu huyền bí trong tranh dân gian, câu cú đầy ẩn ý trong Lĩnh Nam Chích quái, hay đời cô Tấm tại sao lại phong ba đến thế, so với cô gái Lọ Lem?

Tác phẩm MTVTVMĐP giúp chúng ta hiểu rằng cái tinh túy của Lý học tiền nhân đã cẩn thận gói ghém để trao truyền. Điều kiện lựa chọn truyền nhân đích thực lại đơn giản đến tuyệt vời. Chỉ có những học giả có lòng trân trọng văn hóa thuần túy dân dã Việt - một văn hóa bát ngát với câu Kiều bờ tre, mái rạ (thơ Chế Lan Viên) - mới có thể có được cái trực giác thẳng vào trọng tâm của Lý học Dịch Âm Dương để tìm ra những tương tác căn bản. Tiền nhân đã bỏ qua những tiêu chuẩn hạn hẹp như chủng tộc, màu da, tôn giáo, hay giai cấp xã hội trong việc lựa chọn truyền nhân. Các ngài hiểu rằng qua bao thăng trầm của lịch sử, những yếu tố đó đều là phụ và khó bền vững. Tương tự như xây dựng một Kim Tự Tháp với chân vững chãi bên Ai Cập, tinh túy của một nền triết học huyền vĩ được bồi đắp trong tâm khảm người Việt bằng những ứng dụng nhuần nhuyễn phổ biến sâu rộng trong quần chúng nông thôn và hạ tầng cơ sở. Bài học này khiến chúng ta càng phải trân trọng giữ gìn những truyền thống xưa, vì biết đâu chúng còn chứa đựng những tinh hoa để lại mà chúng ta chưa tìm hiểu hết.

Tác phẩm MTVTVMĐP kết thúc bằng truyện ngụ ngôn “Trê Cóc” đầy ý nghĩa. Cóc là linh vật của văn minh Văn Lang, thường hay thấy trên mặt các trống đồng. Cóc được tôn vinh là cậu ông Trời hay cội nguồn vũ trụ trong văn chương truyền khẩu. Cóc sinh ra nòng nọc: Danh từ “nòng” (tròn rỗng) và “nọc” (sắc nhọn như cọc) là tượng hình nôm na nhất của yếu tố Âm Dương. Vũ trụ vận hành dẫn đến Âm Dương tương tác.

Trong truyện , cá trê đầy tham vọng hão huyền như Lý Ngư Vọng Nguyệt tượng trưng cho văn hóa Hoa Hạ, nhận lầm nòng nọc làm con. Cá trê mang nòng nọc về nuôi, hay mang Lý học Dịch Âm Dương về nhận làm văn hóa riêng, vì thế sau bao năm cọc cạch vẫn không hiểu được tinh túy. Nòng nọc đến ngày khôn lớn, mọc hai chân, lại trở về với Cóc là cha đẻ đích thực, tượng trưng cho sự phực hồi nền văn minh Văn Lang. Ẩn dụ tuyệt vời này đã được truyền khẩu bao đời, đến bây giờ ta mới thấm thìa chiều sâu của nó.

Tác giả NVTA đã dùng một số lớn tài liệu thư tịch cổ Trung Hoa để minh chứng cho lý luận của mình. Nội dung phần lớn của Lý học Dịch Âm Dương, nhất là các kiến thức áp dụng đều được ghi chép kỹ lưỡng trong những thư tịch cổ xưa này. Ngày nay, nếu còn có thể phục hưng lại Lý học Dịch Âm Dương, cũng phải dựa trên những tài liệu sách vở còn lưu truyền lại. Truyền thống bảo tồn các tư liệu văn hóa từ ngàn xưa của người Hoa Hạ rất là uyên bác. Mặc dù không nắm được phần tinh túy của lý thuyết, người Hoa Hạ cũng cảm nhận được giá trị vĩ đại của Lý học Dịch Âm Dương nên họ đã dày công gìn giữ. Khi thôn tính Văn Lang, họ đã không thô bạo như Mã Viện sau này, mang hết những trống đồng chiếm được ra đun chảy để đúc đồng trụ Giao Chỉ.

Như thế, người Hoa Hạ có thể không có công sinh, nhưng có đóng góp vào công dưỡng Lý học Dịch Âm Dương. Lý học Dịch Âm Dương là tài sản tinh thần cao quý chung của cả nhân loại. Trên con đường phục hưng giá trị cao quý này, chúng ta phải công tâm thừa nhận tất cả mọi đóng góp trong hàng ngàn năm qua. Một điều quan trọng là cờ quẻ Ly của Đại Hán cũng không có hai điểm Thiếu Âm và Thiếu Dương. Chúng ta cần tìm hiểu văn hóa bình dân của nước này để tìm thêm những tư liệu mới. Có thể Đại Hán cũng góp phần vào việc phục hồi tinh túy của Lý học Dịch Âm Dương.

Người Lạc Việt biết đâu cũng thừa hưởng Lý học Dịch Âm Dương từ một cội nguồn trước đó và cũng không phải là chủ nhân của ông. Vinh dự là truyền nhân đích thực của hệ thống tư tưởng này trong một giai đoạn lịch sử nào đó đã là quá lớn. Giới nghiên cứu Dịch hiện đại phải chuẩn bị hết sức công phu về mặt logic đế công bố giả thuyết này, nếu không có thể không đứng vững được trên diễn đàn quốc tế. Trong thời gian hiện nay, nếu có thể được nên tránh những kết luận có tính chất đoán chắc. Tất cả những suy diễn từ một chứng cớ nào đó nên để dưới dạng giả thuyết.

Trong tác phẩm MTVTVMĐP, kết luận Lạc Việt là chủ nhân đích thực của Lý học Dịch Âm Dương được lặp đi lặp lại rất nhiều lần. Người viết đề nghị nên thu tóm những kết luận này trong vài chương chính, còn để chỗ cho phần suy diễn. Ket luận này cũng nên coi là giả thuyết, chứ chưa phải là sự thật hiển nhiên đã được chứng minh.

Phần miêu tả về phương pháp suy diễn dựa trên các tiêu chuẩn khoa học hiện đại, cũng được lặp lại quá nhiều lần. Nếu có thể được, mong tác giả NVTA tạo một chương hay một mục về phương pháp luận chung. Khi cần thì trích ra là đủ, không cần phải lặp lại.

Một khái niệm so sánh trong phần II chương V về Thái cực với Kiến tánh có thể gây tranh cãi không cần thiết. Thái cực là thực thể vật chất, mặc dù không chi phối bởi không gian, thời gian hay số lượng của bất cứ hệ thống vật lý nào của khoa học hiện đại. Sau thời điểm 0, Thái cực bất chợt biến hóa nhường chỗ cho Lưỡng nghi. Kiến tánh là một hiện tượng tâm thức thường

hằng tồn tại với Thái cực và bất cứ biến hóa nào sau đó của Thái cực. Đối với Kiến tánh, hiện tượng Thái cực biến thành Lưỡng nghi cũng chỉ là Không (không đây có nghĩa là không thường hằng, chứ không phải là không có hiện hữu). Mặc dù hai khái niệm đều không bị chi phối bởi không thời gian và số lượng, nhưng theo thiển ý của người viết, chúng hỗ trợ cho nhau nhưng không tương tự.

Hình như trong phần III, tác phẩm có chương đề cập đến nền văn minh Atlantic và phân loại thời đại số V cho văn minh Văn Lang. Theo thiển ý của người viết, những suy diễn này quá xa với những tài liệu nêu ra, và không làm sáng tỏ thêm chủ đề. Nếu có thể được, xin tác giả gác lại những chi tiết này để dùng cho một tác phẩm khác.

Cũng xin tác giả cho một chương về phần định nghĩa các từ quan trọng dùng trong sách chẳng hạn như: tiêu chí, minh triết, căn để, mệnh đề, định đề... để người đọc không hiểu lầm.

22-5-2014

                                                                


 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét