PHẠM QUANG ÁI
Nguyễn Du chào đời trong thời loạn
lạc: Thảo nào
khi mới chôn nhau, Đó là những câu thơ đầy ảo não, bi quan
yếm thế của Ôn Như Nguyễn Gia Thiều (1741-1798) viết trong tuyệt tác Cung oán ngâm khúc. Nguyễn Gia Thiều
hơn Nguyễn Du đến 24 tuổi và mất trước Nguyễn Du 22 năm. Rất có thể khi
Nguyễn Du trông thấy ánh mặt trời thì Nguyễn Gia Thiều đã khởi bút viết khúc
ngâm tê tái của mình. Cung oán là sự ánh xạ xanh xao, vàng vọt tâm trạng con
người bế tắc cùng cực trong một bối cảnh xã hội rối ren, đen tối.
Nguyên tiêu, sân vắng, trăng đầy, Hằng Nga nguyên vẻ đẹp này, chẳng phai. Trời xuân gõ cửa nhà ai? Quỳnh Châu vạn dặm đêm nay trăng tròn. Hồng Sơn, huynh đệ lìa tan, Bạc đầu, nhiều hận, năm tàn tháng trôi. Cùng đường, trăng vẫn thương tôi, Tuổi ba mươi, khắp biển trời lênh đênh . Thanh Hiên thi
tập có 6 bài thơ xuân thì tất cả đều
là những bài thơ buồn, không mảy may ánh lên một niềm vui nào. Khi thì bất
cần đời, chán chường số phận (Xuân nhật
ngẫu hứng); lúc lại khắc khoải, bế tắc trong khung cảnh đêm xuân đầy u ám
và bi thương. Trong cái khung cảnh ảm đạm đó, hiện lên một con người tài hoa
bạc mệnh thấm thía cảnh ngộ bệnh tật, xa nhà, không danh phận, không tìm thấy
lối ra trong “đêm trường dạ tối tăm trời đất” (Xuân dạ). Mùa xuân với tiết Thanh Minh ấm áp, trai gái gần xa nô
nức trong hội Đạp Thanh, lòng người hứng khởi, cảnh vật đầy sắc xuân và con
người như hòa quyện với nhau. Nhưng đó là Thanh Minh của nhân gian, còn Thanh
Minh của Nguyễn Du trong bài thơ Thanh Minh ngẫu hứng lại là một không gian
đầy gió lạnh, “nhân tự bi thê thảo tự thanh”, người cứ buồn thương cỏ cứ
xanh, cảnh và người không ăn nhập với nhau. Người đã tiều tụy vì gian khổ,
đau thương nên thấy cảnh lại thêm sầu. Lênh đênh một góc trời không chén rượu
uống khi tết đến (Thanh minh ngẫu hứng).
Trong Mộ xuân mạn hứng, Nguyễn Du
lại bày tỏ một nhân sinh quan đậm màu sắc Lão Trang, xem kiếp sống như một
trò mộng huyễn và công danh là một thứ ảo ảnh như ánh nắng cuối xuân. Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên,
Và
hôm nay, khi dòng họ, quê hương, đất nước và cả nhân loại đang xốn xang chuẩn
bị kỷ niệm 200 năm mất vì dịch bệnh của ông thì đất nước ta cũng như cả thế
giới lại một lần nữa khốn đốn vì trận đại thảm dịch tràn ra từ cái đất nước
mà hơn 200 năm trước ông đã đặt chân tới trong vai trò một vị chánh sứ và gửi
lại cho đời sau những tri nhận rất ít thiện cảm về cái xứ sở đó trong tập thơ
chữ Hán Bắc hành tạp lục. Dường như anh linh của ông đã dự báo điều này từ
200 năm trước! Tập thơ Bắc hành tạp lục là một cuốn “sách trắng” về lịch sử tàn bạo của
Trung Hoa trong đối nội và đối ngoại. Đối nội thì các tập đoàn phong kiến
tranh giành quyền lực, sát hại lẫn nhau; áp bức, tàn sát người dân, những kẻ
sĩ, trí thức lương thiện, trung trinh một cách dã man, tàn khốc. Đối ngoại
thì kỳ thị, bành trướng xâm lược các lân bang, ngoại tộc mà họ miệt thị gọi
là “tứ di” theo một quan điểm vô cùng phản động là “tôn Hoa nhương Di” với
những chủ trương bóc lột, tàn sát con người, tận diệt văn hóa của các nước đó
một cách man rợ(*). Không phải ngẫu nhiên mà một chánh sứ đi sứ thượng quốc,
thiên triều như ông, không hề có trong hồ sơ của sứ đoàn trình nhà vua một
bài thơ thù phụng, ngợi ca vua quan, đất nước của thiên tử nào ngoại trừ 136
bài thơ được sáng tác theo ý hướng “bài Trung” khá rõ nét lại không hề bị
triều đình nhà Nguyễn trách phạt gì, hơn thế, còn được thăng thưởng, cất nhắc
rất hậu hĩnh! Sách Đại Nam chính biên
liệt truyện chép tiểu truyện về ông có đoạn viết: “Du trường ư thi, thiện
quốc âm; Thanh sứ hoàn, hữu Thúy Kiều truyện dữ Bách hành thi tập hành thế”
((Nguyễn) Du giỏi về thơ, hay quốc âm; đi sứ nhà Thanh trở về có truyện Thúy Kiều và tập thơ Bắc hành truyền ra cho đời). Điều đó
chứng tỏ nhà Nguyễn rất đồng tình trước thái độ, quan điểm và cách ứng xử của
ông với đất nước và con người thượng quốc đã được thể hiện rõ ràng trong thơ.
200 năm sau, khi chính người dân Trung Hoa cũng như phần lớn nhân loại
đang khốn đốn vì dịch bệnh thì tập đoàn thống trị Trung Quốc dối trời, lừa
dân, lừa thiên hạ tranh thủ xuất chiêu cắn trộm bằng chủ trương lập quận Tây
Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa) hòng tìm cách nuốt trọn biển Đông. Đúng
là “Giang sơn dị cải, bản tính nan di” (núi sông dễ đổi, bản tính khó dời),
cái căn tính tham lam, nham hiểm, tàn độc của kẻ cướp thì dẫu trời có sập nữa
cũng luôn hiện bản tướng ăn cướp! Ông cha ta, những anh hùng dân tộc như Hai
Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, các vua Trần và Trần Hưng Đạo,
Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung đã bao lần giáng cho chúng những đòn sấm
sét, làm đại bại âm mưu xâm lược của chúng; những văn thần như Giang Văn
Minh, Nguyễn Du đã bày tỏ quan điểm, thái độ bất phục, khinh bỉ bọn chúng
nhưng chúng vẫn không chừa cái âm mưu xâm lược hiểm độc truyền đời. Nhưng như
Nguyễn Du đã nói, các tập đoàn thống trị Trung Hoa “nhai thịt người ngọt xớt”
đó thì trời không dung, đất không tha và thiên hạ sẽ không bao giờ cúi đầu
khuất phục chúng! Tưởng nhớ Nguyễn Du, chúng ta tưởng nhớ
một thi hào luôn nhạy cảm sâu sắc với những đau khổ của cuộc đời, một bậc đại
nhân, đại trí với “con mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời”
không chỉ thấu hiểu nỗi khổ nhân sinh mà còn tường tận kẻ thù dân tộc, không
chỉ biết bi thương cho nhân thế mà còn biết dũng cảm lên án bộ mặt xấu xa của
bọn bành trướng xâm lược truyền đời. Cái chết của ông không chỉ vừa là sự kết
thúc một cuộc đời niềm vui thì ít, buồn đau quá nhiều mà còn như là sự dự báo
cho những thách thức mà nhân dân, đất nước của ông sẽ phải đương đầu trong
lịch sử tương lai lâu dài hàng trăm năm sau. Tư tưởng thoát Hán xuyên suốt trong
tập Bắc hành tạp lục là một chỉ hiệu quan trọng mà con cháu chúng ta phải
nghiễn ngẫm và trân quý! |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét